Điều lính cao xạ sang Triều Tiên
Khi đó cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của Liên Xô đã kết thúc và ông là một lính pháo cao xạ trẻ nhưng có nhiều kinh nghiệm. Melteshinov được trao cơ hội tham gia một sứ mệnh đặc biệt.
Tại căn cứ quân sự Khabarovsk, ông được yêu cầu ký vào bản cam kết giữ bí mật. Tuy nhiên, theo Melteshinov, nhiều người đều đã biết chuyện gì đang diễn ra.
Các máy bay MiG-15 do Liên Xô sản xuất và tham gia Chiến tranh Triều Tiên. Ảnh: MilitaryHistoryNow. |
Sau khi nhận phù hiệu và trở thành một thành viên của sư đoàn pháo phòng không 76mm, ông đi tàu hỏa tới nơi làm nhiệm vụ.
Khi đó ông không quan tâm lắm đến chính trị. Ông không hỏi nơi mình tới là đâu và vì sao. Tại điểm chuyển tàu ở thị trấn vùng biên Grodekovo, ông bỏ quân phục sĩ quan Liên Xô để khoác lên người bộ quân phục Trung Quốc.
Đó là lần đầu tiên ông đi ra nước ngoài. Điểm đặt chân đầu tiên ở nước ngoài là thành phố Đại Liên của Trung Quốc. Tại đó sư đoàn của ông được giao một nhiệm vụ kéo dài trong một tháng là cung cấp hỗ trợ quân sự cho nhân dân Triều Tiên anh em.
Đại bản doanh của sư đoàn được chuyển về Andun cách không xa biên giới Trung Quốc-Triều Tiên. Nơi này thường được phi công hạng ace của Liên Xô - Ivan Kozhedub ghé thăm. Viên phi công này dạy các phi công Trung Quốc và Triều Tiên cách lái những chiếc phản lực cơ đầu tiên (MiG-15).
Trung úy Melteshinov là trợ lý cho tư lệnh sư đoàn.
Phía Liên Xô thiệt hại nặng trong giai đoạn đầu
Quân Mỹ khi ấy đóng ở cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Liên quân chống Triều Tiên của họ gồm 14 quốc gia, có vũ khí mạnh và số lượng lớn các máy bay vừa to vừa hiện đại.
Melteshinov viết trong hồi ký: “Lực lượng không quân của chúng tôi hứng chịu thiệt hại lớn. Lúc đó, chiếc máy bay hiện đại nhất – F-86 Sabre, bắt đầu ra lò từ các dây chuyền lắp ráp trong các nhà máy Mỹ. Các máy bay này được trang bị radar và hệ thống dẫn đường. Bán kính xoay của chúng chỉ là 100m. Chính vì vậy mà các phi công của chúng tôi đã có một thời gian vô cùng vất vả. Các máy bay MiG yếu kém hơn Sabre về nhiều phương diện. Chúng tôi đã phải nỗ lực trợ giúp cho lực lượng không quân càng nhiều càng tốt.”
Ông kể tiếp: “Tuy nhiên máy bay Mỹ thường bay ở độ cao trên 7km, nên đạn pháo cao xạ của chúng tôi thường nổ trên không trung mà không gây hư hại gì cho phi cơ địch. Và cũng vì thế các chiến sĩ của chúng tôi luôn phải đội mũ sắt cũng như bộ đồ dã chiến. Các mảnh đạn pháo của chính chúng tôi rơi từ độ cao vài kilomet thường có nguy cơ gây tử vong cho các pháo thủ cao xạ.
Về đêm, đối phương tiến hình các đợt ném bom. Khi đó người Mỹ còn dùng cả bom napalm. Chúng tôi chôn cất các binh sĩ của mình ở nghĩa trang người Nga ở Đại Liên (Trung Quốc), còn các sĩ quan từ cấp thiếu tá trở nên mà tử trận thì sẽ được gửi về quê nhà.”
Vẫn hồi ký của Melteshinov: “Sư đoàn chúng tôi được triển khai tới một ngôi làng Triều Tiên nhỏ bé gần Andun. Chúng tôi luôn vui khi bắn hạ được một chiếc máy bay Mỹ. Tuy nhiên sở chỉ huy của chúng tôi yêu cầu phải có bằng chứng về chiếc máy bay bị bắn rơi. Vì vậy, phía Triều Tiên đã tổ chức các đơn vị đặc biệt tham gia vào việc tìm kiếm bằng chứng.
Trong 9 tháng tham chiến đầu tiên, sư đoàn chúng tôi bắn cháy 52 chiếc Sabres. Thế nhưng một lần nọ bóng đen phủ lên niềm vui của chúng tôi: Một trong các phi công Triều Tiên đã lái chiếc MiG tới Seoul để đào tẩu sang phía địch...
Một tờ truyền đơn mà quân đội Mỹ rải xuống các vị trí của quân đội Triều Tiên trong Chiến tranh Triều Tiên. Ảnh: MilitaryHistoryNow. |
Quân Mỹ sau đó thả truyền đơn lên vị trí của chúng tôi, hối thúc chúng tôi làm điều tương tự như viên phi công kia. Thế nhưng họ đã tính nhầm. Binh sĩ Xô viết có mối quan hệ rất nồng ấm với các chiến sĩ Trung Quốc và Triều Tiên. Vào ngày 1/10 (Quốc khánh Trung Quốc), phía Trung Quốc mời chúng tôi ăn mừng ngày lễ của họ - chúng tôi ngồi cùng bàn và ăn uống với nhau. Còn đến dịp Ngày Quốc tế Lao động 1/5 và ngày 7/11 (ngày Cách mạng tháng Mười Nga - ND), chúng tôi lại mời họ tham gia lễ kỷ niệm của chúng tôi.”
Thời kỳ chiến đấu của Melteshinov diễn ra như bao người lính Nga khác ở chiến trường Triều Tiên. Có lần, ông đã cố gắng tới Khabarovsk để gặp gia đình mình trong hai tuần. Thi thoảng ông có tới Bắc Kinh. Ông mang theo một cuốn sách song ngữ dùng để giao tiếp với bạn bè. Phía Triều Tiên và Trung Quốc cùng gọi tất cả các quân nhân Liên Xô bằng một cái tên chung là “Đại úy”.
Hòa mình với người dân Trung Quốc và Triều Tiên
Binh lính Liên Xô bị cấm đến gần trong vòng 60km tính từ thủ đô Bình Nhưỡng. Khi ấy, Mỹ tố cáo Liên Xô đã cung cấp viện trợ quân sự cho Triều Tiên. Các nhà ngoại giao Xô viết cực lực phản đối cáo buộc này. Do vậy, phía Mỹ quyết định phải bắt sống một phi công Liên Xô để làm bằng chứng. Để đối phó với điều này, phía Liên Xô đã phải thực hiện nhiều biện pháp đặc biệt.
Trong thời gian rảnh rỗi, các pháo thủ cao xạ sẽ bắt cá ở các con sông địa phương – hoạt động này làm cho cả người Trung Quốc và Triều Tiên thích thú. Hầu hết dân địa phương đều nghèo và họ chưa bao giờ thấy lưỡi câu và cần câu. Nhưng mặt khác, các quân nhân Xô viết cũng ngạc nhiên về sự thông minh và kỹ năng của các “người anh em trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Oanh tạc cơ Mỹ rải bom xuống các vị trí của quân tình nguyện Trung Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên. Ảnh: AP. |
Melteshinov kể: “Người Trung Quốc họ bắt cá bằng bồ nông. Một con bồ nông đói được buộc vào dây thừng, cổ họng con này bị buộc một cái vòng chặt để ngăn nó nuốt thức ăn. Con bồ nông sẽ bắt cá và ngư dân sẽ lấy cá từ miệng nó. Như vậy là không đúng với câu nói “Đã đánh bắt cá thì đừng ngại dính nước”. Chúng tôi cười đua vui vẻ với nhau nhưng rốt cuộc các binh lính chúng tôi vẫn bắt được nhiều cá hơn.”
Thức ăn cho toàn bộ sư đoàn do một đầu bếp Trung Quốc đã có tuổi lo liệu. Ông ấy nấu cho Melteshinov và các đồng đội những bữa ăn vừa ngon vừa thịnh soạn. Melteshinov vẫn nhớ “đồng chí anh nuôi” này cho tới tận ngày nay.
Melteshinov kể tiếp: “Hai năm ở Triều Tiên không phải là trải nghiệm dễ dàng đối với chúng tôi. Chúng tôi không rời nơi này ngay sau khi kết thúc các chiến dịch quân sự. Chúng tôi còn dạy nghệ thuật pháo binh cho các người bạn của chúng tôi. Tất cả các vũ khí vẫn ở lại đó sau khi chúng tôi rời khỏi Andun. Chúng tôi ra khỏi Triều Tiên qua một chốt biên giới khác. Chúng tôi không mang theo được bất cứ thứ gì dù lúc đó chúng tôi nhận một mức lương rất hậu hĩnh trả bằng nhân dân tệ. Với số tiền đó chúng tôi có thể mua được 5 bộ com-lê đẹp. Tuy nhiên nhân viên hải quan đã ngăn không cho chúng tôi mang theo dù chỉ là một chiếc áo... Sau này những nhân viên này bị truy tố hình sự vì đã lạm quyền.”
Công bố cuộc chiến bí mật
Năm 1952, có 26.000 binh sĩ và 321 máy bay Liên Xô tham chiến ở Triều Tiên.
Liên Xô tham gia vào cuộc chiến này một cách bí mật, không chính thức. Do đó các phi công của họ bị cấm đến gần tiền tuyến hoặc bay qua biển. Máy bay của các phi công này mang phù hiệu Trung Quốc còn họ mặc quân phục Trung Quốc và mang theo tài liệu bằng tiếng Trung Quốc.
Ở giai đoạn đầu, các phi công còn được yêu cầu khi tác chiến thì không nói tiếng Nga và phải sử dụng các câu quan trọng trong tiếng Triều Tiên. Tuy nhiên sau các trận không chiến đầu tiên, yêu cầu này đã bị bãi bỏ do không khả thi.
Việc các phi công Liên Xô tham gia cuộc Chiến tranh Triều Tiên đã được công bố ở Liên Xô trong các thập niên 1970-1980. Bất chấp sự việc được giữ bí mật, các phi công của phe Liên Hợp Quốc đều ý thức rõ đối phương của mình là ai.
Theo các nguồn tin Xô viết, mức độ tổn thất của các đơn vị không quân Liên Xô trong 3 năm Chiến tranh Triều Tiên lên tới 335 máy bay, ít nhất 120 phi công và 68 pháo thủ. Trong khi đó, con số thiệt mạng của đối phương là 1.250 máy bay, trong đó có 1.100 chiếc bị bắn hạ bằng tiêm kích, số còn lại là bằng pháo cao xạ.
Theo VOV