10. Lá thư giả buộc cả một lâu đài đầu hàng
Lâu đài (James Gordon) |
Lịch sử cho thấy, các hiệp sĩ cứu tế của dòng tu Y viện Hiệp sĩ đoàn (Knights Hospitallers) rõ ràng là không phải là những kẻ dễ bị bắt nạt mà sẵn sàng chiến đấu đến người cuối cùng nếu cần. Kịch bản mà gầu như đã xảy ra khi các chiến binh mamluk (binh sĩ nô lệ Hồi giáo) vây hãm lâu đài kiên cố Krak des Chevaliers của Y viện Hiệp sĩ đoàn vào tháng 3/1271. Lực lượng Hồi giáo do quốc vương Baybars chỉ huy từng bước đánh chiếm lâu đài và đẩy các hiệp sĩ vào bên trong lâu đài vào cuối tháng đó.
Thừa biết khi bị dồn vào đường cùng, các hiệp sĩ sẽ chiến đấu đến giây phút cuối cùng, vị quốc vương khéo léo giả mạo một lá thư đề tên của Tổng thủ lĩnh của Y viện Hiệp sĩ đoàn và tìm cách đưa tới tay các hiệp sĩ bị vây hãm. Lá thư có ghi các chỉ thị và cho phép cho các hiệp sĩ được đầu hàng. Các hiệp sĩ đã bị mắc mưu và đầu hàng; sau đó, vị quốc vương đã tha mạng cho họ và cho phép họ an toàn rời đi Tripoli với điều kiện họ không được quay trở lại. Vào tháng 4/1271, quân mamluk đã chiếm được toàn bộ lâu đài và biến nó thành đồn binh của mình.
9. Khẩu pháo giả khiến kẻ địch bỏ cuộc
Khẩu pháo giả |
Pháo giả (quaker gun) là những đoạn thân cây hoặc các vật liệu tương tự khác được sơn đen và làm cho giống như khẩu pháo thật. Được đặt theo tên của Hiệp hội Bạn hữu (Society of Friends) hoặc Quakers, những khẩu pháo giả đã được dùng trong nhiều cuộc chiến tranh để đe dọa hay đánh lừa kẻ thù. Một ví dụ hiếm hoi khi một khẩu pháo giả thực sự buộc quân địch đầu hàng diễn ra trong chiến dịch của Đại tá William Washington ở Nam Carolina vào ngày 4/12/1780.
Viên đại tá mà tình cờ cũng là người em họ thứ hai của của George Washington đã phát hiện được 115 lính thuộc phe thân Anh ẩn náu trong một nhà kho kiên cố. Nhanh trí, Washington đã bí mật sơn một thân cây thông cho giống như một khẩu pháo và đe dọa sẽ khai hỏa nếu những kẻ cố thù không quy hàng. Nỗ lực của ông đã được đền đáp bằng sự đầu hàng vô điều kiện của Đại tá Rowland Rugeley và toàn bộ quân lính dưới quyền của ông. Thật đau lòng khi những người lính bị đánh bại sau đó phát hiện ra là khẩu pháo đó là đồ giả.
8. “Hải quân” rởm của Benedict Arnold cản bước cuộc xâm lược của quân Anh
Trước khi Benedict Arnold được biết đến như một trong những kẻ phản bội nổi tiếng nhất trong lịch sử, ông là một vị tướng Mỹ tháo vát và tỏ ra là đối thủ đáng gờm của quân Anh vũ trang tốt. Ông đã bộc lộ sự khéo léo đặc biệt của mình trong trận chiến quan trọng đảo Valcour vào tháng 10/1776. Tại hồ Champlain, lực lượng hải quân hỗn tạp với 15 tàu của Arnold đã chạm trán một hạm đội hùng mạnh 25 tàu của Anh. Điều dễ dự đoán là hạm đội Anh đã dễ dàng đánh tan các con tàu của Arnold và buộc Arnold phải rút lui.
Mặc dù quân Anh đã giành được thắng lợi chiến thuật áp đảo, sau này nó lại trở thành chiến thắng chiến lược của Arnold: Sự hiện diện đơn thuần của các tàu Mỹ đã thúc đẩy người Anh tốn khá nhiều thời gian để xây dựng hạm đội của mình. Khi mà quân Anh hoàn thành các con tàu và giành chiến thắng, gần như đã vào mùa đông, họ buộc phải rút trở về Canada và điều chỉnh thời gian xâm chiếm New York sang năm sau. Điều này cho phép người Mỹ có đủ thời gian chuẩn bị bố phòng và cuối cùng là đánh bại quân Anh ở Saratoga vào năm 1777.
7. Viên sĩ quan SS một mình chiếm được Belgrade
Fritz Klingenberg (Bundesarchiv) |
Tháng 4/1941, Fritz Klingenberg, một sĩ quan SS, tham gia cuộc thi đua với các đơn vị đột phá của quân đội Đức nhằm chiếm giữ Belgrade. Trong cuộc đua của họ, Klingenberg tiến đến sông Danube khi con sông dềnh nước lên bởi những cơn mưa liên miên. Bất chấp nguy hiểm, Klingenberg và 10 lính dưới quyền vượt được qua con sông bằng một chiếc xuồng máy cũ ọp ẹp. Sau đó, họ hành quân vào Belgrade mà không gặp một chút kháng cự và trú quân tại đại sứ quán Đức.
Biết rằng các lực lượng Đức vẫn còn ở phía sau hàng dặm, Klingenberg đã thử một kế đánh lừa: Anh ta nói với viên thị trưởng rằng, thành phố sẽ bị máy bay Đức oanh tạc ta nát nếu ông ta không chịu đầu hàng. Thật may là lời đe dọa đã tỏ ra hiệu nghiệm, khiến viên thị trưởng vội vã giao nộp Belgrade cho Klingenberg. Khi quân đội Đức cuối cùng đến được Belgrade, họ đã tức giận khi biết Klingenberg không chỉ đánh bại họ khi đến thành phố trước mà còn một tay chiếm giữ được thành phố. Chiến công xuất sắc của Klingenberg được các đơn vị SS khác ca tụng hết lời và anh ta đã được trao tặng huân chương Hiệp sĩ Chữ thập sắt vì thành tích này.
6. Chiến dịch Scherhorn
Trong chiến dịch kéo dài gần một năm thời Thế chiến II này, Liên Xô ép buộc một số tù binh Đức, trong đó có cả Heinrich Scherhorn đóng giả một bộ phận của 2.500 lính Đức bị mắc kẹt đằng sau các phòng tuyến của kẻ thù ở Đông Âu. Giả mạo làm những người lính Đức, Hồng quân Liên Xô sau đó đã liên lạc với đại bản doanh quân đội Đức ở Berlin và xin hàng tiếp tế để giúp họ đột phá vòng vây trở về. Tất nhiên, đây chỉ là một trò đánh lừa để đoạt lấy nguồn lực quý giá của Đức và nó đã có hiệu quả rất cao: Từ tháng 8/1944 cho đến khi chiến tranh kết thúc, quân Đức liên tục thả dù người và hàng tiếp tế hỗ trợ cho một đội quân không hề tồn tại.
Trong quá trình chiến dịch, Liên Xô đã thu được một lượng hàng tiếp tế khá lớn cùng với khoảng 25 sĩ quan Đức mà sau đó cũng bị phía Liên Xô buộc phải tiếp tục đánh lừa quân Đức. Quân Đức ở nhà không bao giờ phát hiện ra trò đánh lừa; có lúc, lực lượng đặc nhiệm của Otto Skorzeny còn được lệnh tiến hành một cuộc giải cứu cho đội quân Đức “trong vòng vây”. Hitler cũng tin toàn bộ chuyện này nên thậm chí đã thăng cấp và khen thưởng cho Scherhorn cùng các binh sĩ ma của ông ta.
5. Viên tướng miền nam hàng phục đội quân miền bắc
Viên tướng phe miền nam (trong nội chiến Mỹ) Nathan Bedford Forrest không phải ngẫu nhiên được biết đến như là “Phù thủy trên yên ngựa”. Không chỉ nổi tiếng vì vai trò trong vụ thảm sát đẫm máu quân đội Liên bang miền bắc bại trận ở Fort Pillow, Forrest còn có tiếng là một kỵ sỹ cực kỳ sáng tạo, liên tục qua mặt các đối thủ của mình. Một ví dụ hoàn hảo về mưu trí quân sự của ông thể hiện trong cuộc tấn công tai hại vào Alabama của quân liên bang miền bắc vào tháng 4/1863.
Với một lực lượng 1.700 người do Đại tá Streight Abel phe Liên bang miền bắc chỉ huy, được gọi là Kỵ binh Jackass (đội quân này có tên như vậy là vì các binh lính cưỡi la) hy vọng sẽ phá hủy được tuyến đường sắt địa phương vốn dùng để tiếp tế cho các lực lượng Liên minh miền nam ở Tennessee. Với một lực lượng chỉ có 500 người, Forrest theo dõi và quấy rối những kẻ tấn công phe miền bắc khiến họ cuối cùng phải rút về thị trấn nhỏ Cedar Bluff.
Forrest gặp Streight bị dồn vào đường cùng và yêu cầu ông ta đầu hàng vô điều kiện. Để thuyết phục viên sĩ quan phe miền bắc rằng, ông đang có sẵn một lực lượng lớn lâm trận, Forrest ngầm ra lệnh cho quân lính của mình và các khẩu pháo diễu qua diễu lại nhiều lần trên một sườn núi lân cận. Nhìn thấy lính phe miền nam đông lúc nhúc, Streight cứng đầu cuối cùng đành nhượng bộ và ra lệnh cho quân mình đầu hàng. Sau khi nhận ra thủ đoạn gian trá của Forrest, Streight đòi Forrest thả binh lính của ông để họ có thể có một trận chiến đàng hoàng nhưng bị viên tướng phe miền nam bác bỏ.
4. Baden-Powell đánh lừa quân Boer
Bên cạnh tính cách lập dị của mình và vai trò trong việc thành lập Hướng đạo sinh, Robert Baden-Powell còn nổi tiếng nhờ bảo vệ thành công thành phố Mafeking ở Nam Phi trong cuộc chiến tranh Boer lần thứ hai. Với một lực lượng chỉ 1.500 người, Baden-Powell thấy cần sử dụng chiến thuật nghi binh để đối phó lực lượng Boer hùng mạnh với 8.000 quân vây hãm thành phố. Vì vậy, ông đã nghi binh bằng cách cài những quả mìn giả và chăng thứ dây thép gai giả trong toàn thành phố và cho quân của mình giả đò vượt qua chúng như thể chúng là mìn và dây thép gai thật trước sự quan sát chăm chú của kẻ thù.
Baden-Powell thậm chí còn giả mạo một lá thư nói rằng, quân tiếp viện Anh đang tới (thực ra không có), mà sau đó ông đã cố tình “thua” quân Boer, buộc họ phải rút bớt 1.000 quân để bảo vệ phía sau lưng của họ. Những hành động tâm lý chiến hiệu quả này đã giúp Baden-Powell đứng vững trong 7 tháng cho đến khi quân tiếp viện đến. Sau khi trở về nhà, Baden-Powell đã trở thành một anh hùng dân tộc và nhận được vô số khen thưởng.
3. Haile Selassie khuất phục đối thủ bằng tiệc và rượu
Ras Tafari Makonnen Woldemikael (được biết đến nhiều hơn với tên Haile Selassie I, vua Ethiopia [1930-1974]) đã chứng minh rằng, ông có sự khôn ngoan cần thiết để sống sót trong thế giới chính trị. Đối mặt với một đối thủ mạnh là thái giám Balcha Safo, Selassie sử dụng một kế lừa cổ điển ghi danh trong lịch sử. Năm 1928, ông đã mời thống đốc Balcha, hồi đó là thống đốc một tỉnh, đến cung điện của mình để ông mở tiệc chiêu đãi. Balcha vốn cũng là một chiến binh đáng gờm, từng chiến đấu chống lại người Italia trong trận Adwa năm 1896, đã tới thủ đô và đóng 10.000 quân bên ngoài thành phố .
Không tin tưởng Selassie, Balcha cũng đem theo 600 lính thiện chiến nhất đến dự tiệc. Selassie vào vai một chủ nhà hoàn hảo và không ngớt lời ca tụng Balcha. Cuối cùng, các tùy tùng của Balcha bắt đầu lơ là cảnh giác và uống rượu rất nhiều. Sau bữa tiệc, Balcha cùng tùy tùng trở về trại của họ ở ngoài kinh đô, nhưng thấy không còn ai ở đó.
Trong khi họ còn tiệc tùng trong cung điện, một người của Selassie đã đến trại của Balcha và mua chuộc quân lính của Balcha hạ vũ khí và biến mất. Mặc dù sau đó Balcha trốn thoát vào một nhà thờ, ông đã nhanh chóng thấy mình bị bao vây với quân lính của Selassie. Không còn lựa chọn nào khác, Balcha đầu hàng và chấp nhận ở lại trong một tu viện cho đến hết đời.
2. Không thành kế của Tokugawa
Không thành kế là một kế phòng thủ nghi binh nhằm lừa địch tin rằng, đang có một bẫy phục kích chờ chúng tại một khu vực hiểm yếu khiến kẻ địch sợ hãi mà rút lui. Mặc dù kế này đã được nói đến rất nhiều trong các tiểu thuyết như Tam Quốc diễn nghĩa, một trường hợp khác vận dụng của kế này được ghi chép rõ là trận Mikatagahara vào tháng 10/1572. Trong trận đánh đặc biệt này, Takeda Shingen và quân đội đông hơn hẳn về quân số đã dễ dàng đánh bại lực lượng nhỏ hơn nhiều của Tokugawa Ieyasu.
Để tránh cho toàn quân bị tiêu diệt, Tokugawa đã ra lệnh rút lui trở lại lâu đài của họ. Dọc đường rút, ông hạ lệnh thắp các ngọn đuốc dọc theo các tuyến đường và mở tung các cổng. Để cú lừa hiệu quả hơn, một tướng của ông cũng còn thúc một chiếc trống đại trên đỉnh một cái tháp ở gần cổng. Thật khó tin là kế nghi binh của Tokugawa đã thành công: Takeda và quân đội của mình, khi nhìn thấy toàn bộ cảnh tượng, đã quyết định không tiến vào lâu đài mà thay vào đó là quyết định đóng trại để qua đêm. Khi màn đêm buông xuống, một lực lượng nhỏ từ lâu đài đã đánh vào trại và đốt phá, buộc Takeda và quân lính phải rút chạy.
1. Hai nguyên soái của Napoleon tình cờ chiếm được cây cầu chiến lược
Trong trận Schongrabern vào tháng 11/1805, khi quân Pháp chuyển sang tấn công quân Áo và Nga, hai sĩ quan kiêu dũng nhất của Napoleon đã chiếm được một cây cầu trọng yếu từ tay quân Áo mà không cần một phát súng. Các nguyên soái Pháp Jean Lannes và Joachim Murat thấy là họ cần chiếm được cây cầu được canh gác cẩn mật để vượt sông Danube. Biết rằng, cả cây cầu đã bị quân Áo lắp đầy bom, họ quyết định dùng kế lừa để chiếm cầu thay vì bằng vũ lực.
Chỉ với một toán quân nhỏ, hai nguyên soái Pháp thờ ơ tản bộ trên cầu trước cái nhìn đầy bối rối của quân Áo. Không lúng túng vì những phát đạn thỉnh thoảng bắn về phía họ, mấy lính Pháp to tiếng la với quân địch ở bên kia sông là giờ đã có lệnh đình chiến và cây cầu sẽ được giao lại cho quân Pháp.
Khi một lính Áo toan phá nổ cầu, nguyên soái Lannes mắng mỏ anh ta rằng làm thế sẽ là tội nặng. Lúc đó, viên tướng Áo được giao nhiệm vụ bảo vệ cây cầu ra mặt gặp các nguyên soái Pháp. Bất chấp mọi lời can gián của cấp dưới rằng đây là trò lừa đảo của quân Pháp, viên tướng vẫn hạ lệnh cho quân lính của mình rút khỏi cây cầu. Kế trá ngụy đã chiến thắng.
Theo VND