1. Bê tông cốt thép
Tại Triển lãm Paris năm 1867, người làm vườn Pháp, Joseph Monier trình bày phát minh của mình, một lọ hoa cụ thể với lưới sắt nhúng. Monier từng làm việc trong Vườn Tuileries, nơi ông chăm sóc cây cam. Vào mùa hè, những cây được trồng trong các thùng chứa xi măng được lấy bên ngoài, trong khi vào mùa đông chúng được chuyển đến một nhà kính. Các thùng chứa luôn bị nứt và vỡ vì sự biến động của nhiệt độ.
Để làm cho chúng chắc hơn, Monier bắt đầu làm thí nghiệm với lưới sắt mà anh ta nhúng vào các dạng đúc của các thùng chứa bê tông. Trong các thí nghiệm của mình, Monier nhận thấy rằng các thùng chứa bền nhất là những nơi mà các thanh được đặt cả theo chiều ngang và chiều dọc. Có lẽ ông đã nghe nói về các thí nghiệm tương tự với bê tông và sắt, nhưng ông là người đầu tiên cố gắng để phát triển bê tông không chỉ với sắt que, mà là với một lưới sắt.
Việc phát minh các xà xây dựng bằng bê tông cốt thép cũng thuộc về ông.
2. Giải Nobel
Năm 1888, Alfred Nobel ngạc nhiên khi đọc cáo phó của ông có tiêu đề The Merchant of Death is Dead (tạm dịch: Sự kết thúc của một thương gia là cái chết), trong một tờ báo của Pháp. Tuy nhiên, cáo phó là một sai lầm, bởi vì đó là Ludvig Nobel, em trai của Alfred, người đã chết năm đó tại một trong các bệnh viện ở Cannes.
Khi đọc cáo phó của mình, người phát minh ra chất nổ đã quan tâm đến di sản mà ông sẽ để lại sau cái chết của mình. Ông không muốn bị gọi là "cái chết của thương gia" cho đến cuối đời. Vì vậy, ông đã quyết định thay đổi nguyện vọng của mình và tuyên bố rằng tài sản của ông được sử dụng để tạo ra một loạt các giải thưởng cho những người mang lại “lợi ích lớn nhất cho nhân loại” trong các lĩnh vực khoa học khác nhau.
3. Kính bảo vệ an toàn
Năm 1903, nhà khoa học người Pháp Edward Benedictus đang làm việc trong phòng thí nghiệm của ông và cần phải lấy một số hóa chất từ một cái kệ cao khi ông vô tình đập vào một cái bình. Nhìn xuống mảnh thủy tinh vỡ vụn, Benedictus nhận thấy một cái gì đó khá thú vị - cái ly không hoàn toàn tan vỡ, như dự đoán. Thay vào đó, mặc dù kính bị nứt và vỡ nhưng nó vẫn giữ nguyên hình dạng chung. Hóa ra là bình chứa phần còn lại của cellulose nitrat, chất khi khô sẽ bảo vệ bình từ bên trong.
Vào thời điểm đó, xe ô tô có kính thông thường ở cửa sổ và các mảnh vỡ có thể làm tổn thương người lái và hành khách trong các trường hợp xấu như tai nạn. Khi Benedictus đọc về một tai nạn xe hơi khác trên báo, ông bắt đầu thử nghiệm với phát hiện của mình và cuối cùng đã phát minh ra kính an toàn bao gồm hai tấm kính với một lớp cellulose nitrate giữa chúng. Khi được đun nóng, cellulose tan chảy và dán chặt tấm kính.
Nhà khoa học đã được cấp bằng sáng chế “sandwich” mà ông gọi là kính Triplex. Sau đó, Henry Ford là người đầu tiên bắt đầu lắp kính này vào ô tô của mình vào năm 1919.
4. Phóng xạ
Năm 1896, nhà khoa học người Pháp Henri Becquerel đã thử nghiệm gần đây, và cũng vô tình phát hiện ra tia X. Ông đã cố gắng tìm ra mối liên hệ giữa tia X và muối urani.
Becquerel đã sử dụng một loại khoáng chất có muối urani để thử nghiệm. Ông để nó dưới ánh sáng mặt trời một lúc, sau đó đặt nó cùng với một vật kim loại trên một tấm ảnh - một hình ảnh được chụp đã một thời gian dài. Độ chính xác không lớn và ông cho rằng vấn đề là không đủ ánh sáng mặt trời và ông quyết định chờ một ngày nắng hơn.
Nhưng thiên nhiên dường như không hợp tác, vì vậy ông quyết định đặt chất khoáng và tấm ảnh sang một bên bọc trong vải tối cùng với một cây thánh giá Maltese. Vài ngày sau, ông đã phát triển tấm film và thấy hình ảnh của cây thánh giá trên đó, vì vậy ông cho rằng bức xạ không liên quan gì đến ánh sáng mặt trời.
Trong nghiên cứu sâu hơn về "tia" bí ẩn, phóng xạ đã được phát hiện mà Henri Becquerel cùng với Pierre và Marie Curie nhận được giải Nobel năm 1903.
5. Chất gây mê
Năm 1844, Horace Wells đã tham dự một cuộc biểu tình của Gardner Quincy Colton, một người trình diễn và một nhà hóa học, trong đó một nhân viên bán hàng tại địa phương bị say bởi oxit nitơ. Trong khi bị ảnh hưởng, nhân viên bán hàng không có bất kỳ phản ứng nào khi anh đập chân mình vào một chiếc ghế gỗ trong khi nhảy vòng quanh. Ngày hôm sau, Wells tiến hành một thử nghiệm trên chính mình bằng cách hít phải oxit nitrous và nhờ đồng nghiệp của mình nhổ một chiếc răng. Các hoạt động đều không đau, vì vậy bác sĩ đã quyết định sử dụng khí này trên bệnh nhân của mình.
Khi Wells quyết định chứng minh hoạt động của oxit nitơ cho các đồng nghiệp của mình, thí nghiệm thất bại, có lẽ vì liều lượng khí quá nhỏ. Bệnh nhân không thể chịu đau và các đồng nghiệp đã chế nhạo Wells. Nỗ lực tiếp theo của ông để giới thiệu phương pháp gây mê cũng không thành công. Bên cạnh đó, trong thời gian này chloroform và ête có lợi, vì vậy nitơ oxit đã bị lãng quên trong một thời gian.
Vào năm 1848, Wells tự sát bằng cách rạch động mạch đùi trái của mình bằng dao cạo sau khi hít phải một liều thuốc giảm đau của chloroform để loại bỏ cơn đau. Gần 20 năm sau, Colton, người bắt đầu lịch sử gây mê đã bắt đầu sử dụng phương pháp của Wells khá thành công và cuối cùng lan rộng trên khắp nước Mỹ và sau đó là châu Âu.
6. Chất Botox dùng trong phẩu thuật thẩm mỹ
Năm 1987, Tiến sĩ Jean Carruthers, một bác sĩ chữa mắt tại Vancouver đã đi tiên phong trong việc sử dụng Botox, một chất độc dựa trên ngộ độc, làm tê liệt cơ bắp, vì mục đích thẩm mỹ. Việc chuẩn bị được tiêm vào một người phụ nữ bị chứng co thắt phế quản, một triệu chứng gây ra đóng mí mắt không tự nguyện.
Một thời gian sau, bệnh nhân quay trở lại bác sĩ Carruthers và yêu cầu tiêm thêm lần nữa. Khi Jean nói rằng không cần thiết vì bệnh này đã biến mất, người phụ nữ thú nhận rằng sau lần tiêm đầu tiên, ánh mắt của cô trở nên cởi mở và trẻ trung hơn.
Tiến sĩ Carruthers cho rằng chồng bà, Alastair Carruthers, là bác sĩ da liễu trong cùng một phòng khám, hãy thử dùng Botox để điều trị nếp nhăn. Jean mình cùng với Cathy Swann, nhân viên tiếp tân của phòng khám, trở thành bệnh nhân đầu tiên được tiêm Botox vì lý do thẩm mỹ, để loại bỏ nếp nhăn.