Tân Cương và Tây Tạng là hai khu vực chính trong lãnh thổ Trung Quốc nơi cư dân bản địa luôn kháng cự sức ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa. Thêm vào đó, những căng thẳng sắc tộc tại những khu vực này đang làm phức tạp hóa quan hệ giữa Bắc Kinh với các nước lân cận.
Tân Cương, tên của tỉnh cực Tây của Trung Quốc, có nghĩa là “biên cương mới”, dùng để chỉ vùng Turkestan rộng lớn với diện tích gấp đôi bang Texas (Mỹ) và nằm cách xa khu lục địa trung tâm của Trung Quốc qua sa mạc Gobi. Trung Quốc đã là một nhà nước dưới hình thức này hay hình thức khác từ hàng ngàn năm nay, nhưng chỉ đến cuối thế kỷ XIX thì Tân Cương mới chính thức trở thành một phần của nhà nước đó. Kể từ đó, lịch sử của tỉnh này đã “luôn chìm trong bất ổn” như lời mô tả của nhà ngoại giao người Anh Sir Fitzroy Maclean, với những cuộc nổi loạn và nhiều giai đoạn tự trị độc lập ngắt quãng cho tới những năm 1940. Đến năm 1949, quân đội của Mao Trạch Đông đã tiến vào Tân Cương, dùng vũ lực để sáp nhập tỉnh này với phần còn lại của Trung Quốc. Nhưng trong thời gian gần đây, tộc người Duy Ngô Nhĩ, hậu duệ của người Turk từng thống trị Mông Cổ trong thế kỷ VII-VIII, đã luôn có những hành động chống lại chính quyền Bắc Kinh.
Dân tộc Uighur có khoảng 8 triệu người, chưa bằng 1% dân số Trung Quốc, nhưng chiếm tới 45% số dân tỉnh Tân Cương. Người Hán với số lượng áp đảo trên cả nước sống tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng đất thấp tại khu vực trung tâm và vùng duyên hải ven Thái Bình Dương, trong khi những cao nguyên khô cằn hơn ở phía Tây và Tây Nam là nơi trú ngụ lâu đời của dân tộc thiểu số Duy Ngô Nhĩ và Tây Tạng. Sự phân bố dân cư này vẫn luôn là nguồn gốc cho những căng thẳng, bởi trong mắt Bắc Kinh, chính quyền Trung Quốc hiện nay cần phải áp đặt quyền thống trị tuyệt đối lên các khu vực cao nguyên này.
Để giữ được những khu vực trên, và cả nguồn dầu mỏ, khí đốt, quặng đồng và sắt dưới lòng đất tại đây, trong nhiều thập kỷ Bắc Kinh đã đưa người Hán di cư từ khu trung tâm sang sống cùng người bản địa. Chính quyền cũng lôi kéo quyết liệt những nước cộng hòa độc lập của người Turk xung quanh trong khu vực Trung Á, một phần nhằm tách biệt người Duy Ngô Nhĩ Tân Cương khỏi mọi nguồn hậu thuẫn khả dĩ.
Bắc Kinh còn lôi kéo các chính phủ Trung Á với mục đích mở rộng vùng ảnh hưởng của mình; dù biên giới Trung Quốc đã ăn sâu vào trong lục địa Á-Âu, nhưng vẫn chưa đủ so với cơn khát tài nguyên thiên nhiên của nước này. Thế lực của Bắc Kinh tại Trung Á thể hiện ở hai đường ống dẫn lớn nối đến Tân Cương: một dùng để vận chuyển dầu mỏ từ Biển Caspi chạy dọc qua Kazakhstan, ống còn lại để chuyển khí đốt từ Turkmenistan bắc qua Uzbekistan và Kazakhstan. Cơn khát các nguồn tài nguyên thiên nhiên còn đồng nghĩa với việc Bắc Kinh sẵn sàng bất chấp những rủi ro lớn để bảo vệ chúng.
Trung Quốc vẫn tiếp tục khai thác đồng ở Nam Kabul, nằm ngay bên trong Afghanistan đầy khói lửa, và đang để mắt tới những mỏ sắt, vàng, uranium và những loại đá quý khác (khu vực này sở hữu một vài khu mỏ cuối cùng chưa được khai thác của thế giới). Bắc Kinh cũng có ý định xây dựng tuyến đường bộ và ống dẫn năng lượng xuyên Afghanistan và Pakistan, từ đó kết nối vùng ảnh hưởng đang ngày càng mở rộng ở Trung Á với những cảng biển trên Ấn Độ Dương. Điều kiện địa lý chiến lược của Trung Quốc sẽ được củng cố nếu Mỹ ổn định được Afghanistan.
Giống như Tân Cương, Tây Tạng có vị trí hết sức quan trọng trong nhận thức lãnh thổ của Trung Quốc, khu vực này cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ đối ngoại của Trung Quốc. Vùng cao nguyên Tây Tạng, với địa hình đồi núi, giàu quặng đồng và sắt, chiếm một diện tích lớn lãnh thổ Trung Quốc. Đây chính là nguyên nhân khiến Bắc Kinh luôn sợ hãi viễn cảnh về một Tây Tạng tự trị, và cũng là lý do chính quyền vội vàng cho xây dựng đường sá và các tuyến đường sắt trên khắp khu vực. Nếu không sở hữu Tây Tạng, Trung Quốc sẽ chỉ còn là một quốc gia nhỏ hơn nhiều, còn Ấn Độ có thể bổ sung thêm một vùng phía bắc vào cơ sở quyền lực lục địa của mình.
Với hơn một tỷ dân, Ấn Độ như một hàng rào vững chắc, án ngữ một vùng ảnh hưởng của Trung Quốc ở Châu Á. Điều này đã được chỉ rõ trong tấm bản đồ “Đại Trung Hoa” trong cuốn “The Grand Chessboard” (Bàn cờ lớn) của Zbigniew Brzezinski năm 1997. Ở một mức độ nào đó, yếu tố địa lý đã sắp đặt Trung Quốc và Ấn Độ trở thành kỳ phùng địch thủ: là láng giềng kề cận với dân số khổng lồ, cùng sở hữu nền văn hóa phong phú lâu đời, và đều có tranh chấp tuyên bố chủ quyền (điển hình như khu vực Arunachal Pradesh (Nam Tây Tạng của Ấn Độ).
Vấn đề Tây Tạng chỉ như đổ thêm dầu vào lửa. Ấn Độ đang cho phép chính quyền lưu vong của Đạt Lai Lạt Ma tị nạn từ năm 1957, và theo Quỹ Marshall Đức, những căng thẳng biên giới Ấn-Trung gần đây có thể “liên quan đến những lo ngại của Bắc Kinh về vấn đề kế tục Đạt Lai Lạt Ma”. Vị Đạt Lai Lạt Ma tiếp theo có khả năng đến từ vùng vành đai văn hóa Tây Tạng, khu vực trải dài từ miền Bắc Ấn Độ, Nepal đến Bhutan. Do đó ông có khả năng sẽ ủng hộ Ấn Độ và chống Trung Quốc (thân Ấn bài Trung) mạnh mẽ hơn.
Trong tương lai, “cuộc chơi lớn” giữa Trung Quốc và Ấn Độ sẽ không chỉ diễn ra những khu vực này mà còn ở Bangladesh và Sri Lanka. Vị trí địa lý của Tân Cương và Tây Tạng rơi vào trong đường biên giới hợp pháp của Trung Quốc, nhưng dựa trên mối quan hệ không mấy êm đẹp giữa chính quyền trung ương với người bản xứ ở hai tỉnh, có thể thấy Bắc Kinh chắc chắn sẽ không tránh khỏi thái độ chống đối khi mở rộng tầm ảnh hưởng ra bên ngoài phạm vi các khu vực nơi có người Hán chiếm đa số.
Tham vọng và tiềm lực
Tầm ảnh hưởng của Trung Quốc cũng đang dần lan rộng xuống phía Đông Nam. Thực ra, do các quốc gia Đông Nam Á đều không mạnh nên đây là khu vực kháng cự yếu nhất trước sự trỗi dậy của một Đại Trung Hoa. Về địa lý, Trung Quốc gần như không gặp cản trở nào với Việt Nam, Lào, Thái Lan và Myanmar. Trung tâm ảnh hưởng tự nhiên của vùng sông Mekong, nơi kết nối tất cả các nước Đông Dương bằng đường bộ và đường sông, là Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam của Trung Quốc.
Quốc gia có diện tích lớn nhất trên vùng lục địa của Đông Nam Á là Myanmar. Nếu như Pakistan được ví là Balkans của châu Á do luôn có nguy cơ bị chia cắt lãnh thổ, thì Myanmar lại giống như nước Bỉ thời đầu thế kỷ XX khi luôn đứng trước mối đe dọa xâm lược từ những nước láng giềng hùng mạnh hơn. Giống như Mông Cổ, miền Viễn Đông Nga và những vùng lãnh thổ giáp khu vực biên giới Trung Quốc, Myanmar cũng là một quốc gia yếu với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú mà Trung Quốc đang thèm khát. Trung Quốc và Ấn Độ đang cạnh tranh phát triển cảng nước sâu ở Sittwe, nằm trên bờ biển Ấn Độ Dương của Myanmar, với cùng một hy vọng trong tương lai sẽ có thể xây dựng đường ống dẫn ga nối vào từ các mỏ khai thác ngoài khơi vịnh Bengal.
Với cả khu vực nói chung, Bắc Kinh đang áp dụng chiến thuật “chia để trị” trong một số lĩnh vực. Trong quá khứ, Trung Quốc đã đàm phán riêng rẽ với từng thành viên trong ASEAN (Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á) thay vì với tất cả các quốc gia theo tư cách một khối chung. Ngay cả hiệp định thành lập khu vực tự do thương mại chính thức với ASEAN gần đây cũng cho thấy cách thức Trung Quốc sẽ tiếp tục áp dụng để phát triển những mối quan hệ có lợi với những người láng giềng phía nam. Quốc gia này sử dụng ASEAN như một thị trường tiêu thụ những mặt hàng giá trị cao sản xuất trong nước đồng thời mua lại từ đây những sản phẩm nông nghiệp giá rẻ. Điều này đã mang về cho Trung Quốc thặng dư thương mại, trong khi biến các nước ASEAN dần trở thành bãi phế thải cho những sản phẩm công nghiệp sản xuất bởi nhân công giá rẻ của Trung Quốc.
Thực tế này đang diễn ra trong tình cảnh quốc gia hùng mạnh một thời Thái Lan, sau những rung chuyển do biến cố chính trị nội bộ gần đây, đang ngày càng mờ nhạt trong vai trò mỏ neo của khu vực và đối trọng cố hữu của Trung Quốc tại đây. Hoàng gia Thái, với vị vua già yếu, đã không đủ sức đóng vai lực lượng duy trì ổn định như trước kia, trong khi giới quân sự Thái Lan đang bị tư tưởng bè phái thống trị. (Trung Quốc đang đẩy mạnh hợp tác quân sự song phương với Thái Lan đồng thời xây dựng những mối quan hệ tương tự với các nước Đông Nam Á khác, trong khi Mỹ vẫn phải dồn sức cho các cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq).
Ở phía nam Thái Lan, cả Malaysia và Singapore đều chuẩn bị bước vào thời kỳ chuyển đổi dân chủ đầy thách thức khi những nhà lãnh đạo khai quốc công thần đầy quyền lực trước đây, Mahathir bin Mohamad và Lý Quang Diệu, rời khỏi sân khấu chính trị. Malaysia ngày càng dấn sâu vào cái bóng kinh tế của Trung Quốc, cùng lúc dân số gốc Hoa tại đây cảm thấy bị đe dọa bởi người Malay Hồi giáo chiếm đa số. Singapore dù dân số hầu hết là người gốc Hoa nhưng chính phủ cũng đang lo ngại bị biến thành một nước chư hầu của Trung Quốc. Do đó, từ nhiều năm nay, đảo quốc này đã không ngừng chăm chút cho mối quan hệ về huấn luyện quân sự với Đài Loan. Ông Lý Quang Diệu còn từng công khai thúc giục Mỹ tiếp tục can dự vào khu vực cả về quân sự lẫn ngoại giao.
Về phần mình, Indonesia cũng đang bị mắc kẹt trong tình thế giữa một bên vẫn cần sự hiện diện của hải quân Mỹ để cản chân Trung Quốc, nhưng mặt khác lại lo sợ sẽ khiến phần còn lại của thế giới Hồi giáo nổi giận khi nước này có biểu hiện là đồng minh của Mỹ. Trước tình cảnh quyền lực của Mỹ tại Đông Nam Á đã bước qua thời hoàng kim, còn Trung Quốc đang trỗi dậy ngày một mạnh mẽ, các thành viên trong khu vực đang cùng bắt tay hợp tác chặt chẽ hơn nhằm làm suy yếu chiến lược “chia để trị”. Điển hình như Indonesia, Malaysia và Singapore đã liên kết thành một nhóm chống cướp biển. Các quốc gia này càng tự lực cánh sinh bao nhiêu, mối đe dọa từ quyền lực nổi lên của Trung Quốc đối với họ sẽ càng ít bấy nhiêu.
Trung Á, Mông Cổ, vùng Viễn Đông Nga và Đông Nam Á là những khu vực ảnh hưởng tự nhiên của Trung Quốc. Nhưng những vùng biên giới chính trị ở đây lại không thể thay đổi. Trong khi đó, tình hình trên bán đảo Triều Tiên lại là một câu chuyện khác: về cơ bản, bản đồ Trung Quốc bị cắt cụt ngay tại khu vực này, và biên giới chính trị của bán đảo không quá khó để thay đổi.
Chế độ biệt lập của Triều Tiên vốn không ổn định từ trong gốc rễ, và sự sụp đổ của nó có thể ảnh hưởng đến toàn bộ khu vực. Với địa thế vươn ra từ Mãn Châu, bán đảo Triều Tiên kiểm soát toàn bộ giao thông hàng hải ra vào đông bắc Trung Quốc. Tất nhiên không ai thực sự tin rằng Trung Quốc sẽ thôn tính bất cứ phần nào của bán đảo Triều Tiên, nhưng Bắc Kinh vẫn luôn cảm thấy bất tiện khi bị lãnh thổ của quốc gia khác nằm chắn lối ở đó, nhất là phía bắc. Và mặc dù ủng hộ chế độ của Triều Tiên, Trung Quốc cũng lên sẵn những kế hoạch cho tương lai thời hậu cầm quyền của gia đình họ Kim.
Bắc Kinh mong muốn cuối cùng có thể đưa hàng ngàn người đào ngũ đang cư ngụ tại Trung Quốc về lại Triều Tiên để xây dựng nền tảng chính trị thuận lợi cho công cuộc chiếm quyền kiểm soát kinh tế từng bước của Bắc Kinh đối với khu vực sông Đồ Môn. Đây là ngã ba tự nhiên giữa Trung Quốc, Triều Tiên và Nga, đồng thời cũng là nơi có các cảng biển tốt nối với Nhật Bản trên Thái Bình Dương.
Vì lẽ này, có lẽ Bắc Kinh sẽ muốn chứng kiến một Triều Tiên phát triển hiện đại hơn nữa, để từ đó tạo thành một vùng đệm an toàn ngăn cách Trung Quốc với nền dân chủ hưng thịnh và năng động của Hàn Quốc. Tuy nhiên, ngay cả khi bán đảo Triều Tiên tái thống nhất, Trung Quốc vẫn được lợi. Dù một Triều Tiên thống nhất sẽ trở nên dân tộc chủ nghĩa hơn và giữ thái độ thù địch đối với cả Nhật Bản lẫn Trung Quốc, hai kẻ thù đã từng tìm cách xâm lược nước này trong quá khứ, nhưng thái độ thù địch của Triều Tiên với Nhật Bản nặng nề hơn rất nhiều so với phía Trung Quốc. (Nhật đã chiếm đóng bán đảo từ năm 1910 đến 1945, và đến nay Seoul và Tokyo vẫn còn tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Tokdo/Takeshima).
(còn tiếp)
* Lược thuật bài viết của tác giả Robert D.Kaplan - nhà phân tích địa chính trị hàng đầu tại Stratfor và là phóng vên quốc gia cho The Atlantic. Ông cũng là tác giả của cuốn The Revenge of Geography: What the Map Tells Us About Coming Conflicts and the Battle Against Fate ( tạm dịch “Sự trả thù của địa lí: bản đồ bật mí về những cuộc xung đột và trận chiến chống lại số phận sắp diễn ra”) xuất bản tháng 9/2012