Trung Quốc sẽ thất bại nếu Mỹ giăng “phong tỏa trận”
Phong tỏa cự ly gần và phong tỏa khoảng cách xa
Kể cả khi giả định rằng Mỹ có thể tập hợp một liên minh cần thiết, nước này cũng vẫn phải đối mặt với thách thức trong quá trình vận hành làm điêu đứng mọi chiến lược phong tỏa hiện đại nhất.
Các cuộc phong tỏa thường được đặc trưng bởi khoảng cách từ bờ biển của quốc gia bị phong tỏa và tồn tại dưới hai hình thức: gần và xa. Một cuộc phong tỏa ở cự ly gần thường được thực hiện bằng cách đóng trú một hàng rào tàu chiến quanh bờ biển của nước bị phong tỏa để tìm kiếm mọi con tàu chở hàng đến và đi, bắt giữ, tịch thu hàng hóa của những kẻ luôn lậu.
Tuy nhiên, hơn 150 năm trôi qua, các cuộc phong tỏa gần ngày càng trở nên nguy hiểm hơn vì các bên tham chiến đã phát triển công nghệ để triển khai sức mạnh từ bờ biển của nước mình. Để đáp lại, các nước thực hiện phong tỏa đã chuyển sang phong tỏa ở khoảng cách xa. Một cuộc phong tỏa ở khoảng cách xa có thể tránh được những nguy cơ quân sự của việc ở gần bờ biển của kẻ thù bằng cách đóng quân ở cự ly xa, mặc dù vẫn chốt chặn được các tuyến đường biển của đối phương, và sau đó triệt tiêu thương mại của đối phương theo cách tương tự như phong tỏa gần.
Sẽ chằng có chiến lược phong tỏa ở cự ly gần hay khoảng cách xa với Trung Quốc có thể thành công riêng rẽ, nhờ vào sự áp đặt về quân sự và thương mại hàng hải. Mặt khác, một cuộc phong tỏa gần theo cách thông thường sẽ phức tạp vì mong muốn của Mỹ trong việc giảm thiểu nguy cơ quân sự đối với tàu chiến của Mỹ. Khi các lực lượng Mỹ tiến sát bờ biển Trung Quốc hơn, họ sẽ phải hiện diện nhiều hơn trong khu vực chống tiếp cận, có nguy cơ hạn chế sự tự do hoạt động của họ và dẫn đến những thiệt hại nặng nề.
Các lực lượng Mỹ có thể tránh những nguy hiểm từ hệ thống chống tiếp cận của Trung Quốc bằng cách tiến hành một cuộc phong tỏa gần bằng tàu ngầm, lực lượng không quân tầm xa và thủy lôi; nhưng với việc hành động như vậy, cuộc phong tỏa cũng sẽ mất đi khả năng phân biệt giữa hoạt động thương mại của các bên trung lập và hoạt động thương mại của kẻ thù.
Mặt khác, tính hợp lí của cuộc phong tỏa cự ly xa cũng xói mòn bởi những nhu cầu cấp bách của thương mại hiện đại. Hàng hóa và nguyên liệu thô ngày nay có thể được bán đi bán lại nhiều lần trong một chuyến vận chuyển, do đó quyền sở hữu cuối cùng và điểm đến của một tàu chở hàng thường không biết trước được cho đến khi cập cảng. Cho dù Mỹ có khả năng tiến hành một cuộc phong tỏa cự ly xa để kiểm định tất cả các tàu thuộc sở hữu của Trung Quốc hoặc được treo cờ Trung Quốc, Trung Quốc vẫn có thể mua tàu của chở hàng của các bên trung lập sau khi họ đi qua vùng bị phong tỏa, làm đổ bể hoàn toàn mục đích của việc phong tỏa.
Giải pháp: Một cuộc phong tỏa hai vòng vây
Để khắc phục những nhược điểm của mỗi chiến lược phong tỏa, Mỹ sẽ khai thác những điểm lợi thế nhất của cả hai phương án và tiến hành một cuộc phong tỏa hai vòng vây tạo thành hai vòng vây đồng tâm xung quanh bờ biển của Trung Quốc. Trọng tâm của cuộc phong tỏa này sẽ nằm ở vòng bên trong, đó sẽ là cuộc phong tỏa gần không theo cách thông thường, chủ yếu nhằm vào những tàu của các bên trung lập đến Trung Quốc mà không phải lên tàu kiểm tra trước.
Vòng vây này sẽ thiết lập một khu vực loại trừ quanh vùng biển của Trung Quốc - một khu vực được tuyên bố hạn chế đối với các tàu thương mại, và được thực thi bởi chính sách “chìm ngay trước mắt” thông qua việc sử dụng những tàu ngầm tấn công, lực lượng không quân tầm xa và thủy lôi. Không giống những thiết bị quân sự khác, ba loại vũ khí này có thể hoạt động mà không bị thiệt hại đáng kể trong khu vực chống tiếp cận của Trung Quốc thông qua việc lợi dụng năng lực tác chiến chống ngầm còn hạn chế của Trung Quốc và các lực lượng đối phó với thủy lôi còn quá yếu của nước này.
Trong khi cuộc chạy đua thiết bị quân sự này sẽ không đảm bảo cho việc hoàn toàn không bị tổn thương, khu vực loại trừ vẫn có thể đạt được mục đích của cuộc phong tỏa bởi điểm tựa của chiến dịch này nằm ở tính răn đe hơn là thực tế. Ngay khi các lực lượng Mỹ nhấn chìm một vài tàu chở hàng lớn, phần lớn các tàu vận chuyển khác sẽ ngừng việc cố đi qua vùng bị phong tỏa và phần lớn luồng lưu chuyển thương mại hàng hải của Trung Quốc sẽ nhanh chóng cạn kiệt.
Nhưng trong khi tàu ngầm, máy bay chiến đấu từ xa và thủy lôi có thể thực thi một cách hiệu quả khu vực loại trừ như một phần của vòng vây bên trong, chúng cũng là những công cụ không hữu dụng vì không thể phân biệt được tàu chở hàng của Trung Quốc và tàu chở hàng của Nhật Bản, không ngăn chặn, lên kiểm tra và truy lùng được những tàu đáng ngờ. Kết quả là vòng vây bên trong này có khả năng sẽ gây ra những vấn đề chính trị nghiêm trọng như việc Mỹ vô tình phá hoại tàu của các bên trung lập và Mỹ có thể phải đối mặt với những hệ quả chính trị nặng nề hơn từ việc khu vực loại trừ không cho phép các tàu chở thiết bị y tế và những nhu yếu phẩm cần thiết đến Trung Quốc.
Để chống lại những rủi ro này, Mỹ sẽ phải thực hiện vòng kiềm tỏa thứ hai “vòng bên ngoài”. Nó sẽ cho phép chọn lọc hơn trong việc áp dụng vũ lực trong khi cũng vẫn chỉ là một thiết bị sàng lọc. Đối lập với vòng bên trong, vòng bên ngoài sẽ bao gồm một lượng lớn các tàu chiến tập trung vào việc phân biệt giữa các hoạt động thương mại khu vực với độ chính xác cao hơn và vòng này sẽ không gây sát thương như vòng phong tỏa bên trong. Cho dù vòng bên ngoài sẽ đóng góp rất nhiều vào sự thành công của cuộc phong tỏa, nó không phải là điều kiện tiên quyết cho sự thành công này, nhưng nó vẫn hết sức quan trọng trong việc đảm bảo tính khả thi của chiến lược.
Vòng kiềm tỏa bên ngoài sẽ được bố trí ở vùng ngoại vi của các biển gần Trung Quốc, bên ngoài khu vực chống tiếp cận và sẽ tập trung vào các lối đi chính trong khu vực Đông và Đông Nam Á, bao gồm cả eo biển Malacca. Mỹ sẽ thiết lập các trạm kiểm soát ở những lối đi này, tương tự như ở Malacca, những tuyến đường quan trọng với vận tải quốc tế, trong khi các tuyến đường nhỏ hơn sẽ bị đóng cửa hoàn toàn.
Ở những trạm kiểm soát vòng ngoài này, Mỹ cần phải thiết lập và sắp xếp một chế độ kiểm tra nghiêm ngặt. Nếu Mỹ phát hiện ra một tàu nào đó đi đến, hoặc được sở hữu, hoặc được đăng kí tại Trung Quốc thì sẽ tịch thu ngay lập tức.
Mỹ cũng phải thực thi một hệ thống tương tự như hệ thống Navicert (giấy cấp phép cho các thuyền bè chở hàng hóa trung lập, thường được sử dụng trong chiến tranh, bởi nước tiến hành phong tỏa) của Anh trong thế chiến thứ hai, có thể cung cấp cho Mỹ một bản đồ khá chính xác về vị trí của tất cả các tàu thương mại trong khu vực. Mỹ cũng sẽ phải kết hợp bản đồ không gian Navicert với hỏa lực của vòng kiểm tỏa bên trong để sử dụng sức mạnh sát thương chống lại quốc gia bị phong tỏa trong khi vẫn giảm tỉ lệ vô ý đánh chìm các thuyền đặc biệt là những tàu cứu trợ nhân đạo.
Tuy nhiên, nếu tiến trình thực hiện không tốt, hệ thống navicert sẽ làm tăng nguy cơ chệch hướng cho tàu vào nơi mà việc thực thi lệnh phong tỏa nguy hiểm đến mức nó không thể chịu được, trừ những tàu muốn mạo hiểm nhất. Quan trọng hơn, cho dù nó sẽ giúp xoa dịu những hệ quả chính trị từ việc không nhận diện được và gây sát thương của vòng kiềm tỏa bên trong.
Những hệ quả của một cuộc phong tỏa
Cho dù những hệ quả của một cuộc phong tỏa là cực kỳ phức tạp, đa dạng và phụ thuộc lẫn nhau, thì phong tỏa vẫn có khả năng là một công cụ vắt kiệt sức lực như một phần trong chiến dịch tổng thể của Mỹ.
Tuy nhiên ngay từ đầu, cần nhận ra rằng kể cả một cuộc phong tỏa hiệu quả nhất sẽ không ngăn chặn thương mại của Trung Quốc được một cách hoàn toàn, bởi vì kể cả với những điều kiện lý tưởng nhất, Trung Quốc vẫn có thể yêu cầu những vật phẩm thiết yếu và nguồn lực quan trọng của luật cung cầu. Mỹ càng thiết lập lệnh cấm vận khu vực một cách hiệu quả thì lợi nhuận của việc xuất khẩu sang Trung Quốc càng cao. Kể cả nếu tất cả các nước láng giềng của Trung Quốc đều chấp thuận lệnh cấm vận thì Mỹ cũng vẫn bó tay trước buôn lậu qua đường tiểu ngạch.
Một cuộc phong tỏa không thể trực tiếp làm suy yếu quân đội Trung Quốc. Bắc Kinh chỉ cần sử dụng nguồn dự trữ cùng với việc nhập khẩu một cách hạn chế và tự sản xuất trong nước cũng đã có thể nuôi quân đội của mình trong một cuộc xung đột kéo dài.
Bởi vậy, giá trị thực sự của một cuộc phong tỏa nằm ở khả năng gây thiệt hại nặng nề đến mức không thể tưởng tượng nổi với Trung Quốc. Đặc biệt, một cuộc phong tỏa còn có thể khiến nền kinh tế Trung Quốc rơi vào vòng xoáy khủng hoảng bằng việc đánh vào ba yếu huyệt đặc biệt: sự phụ thuộc kép của Trung Quốc về cả nhập khẩu nguyên lệu thô và nguyên liệu trung gian cùng với trình độ đổi mới kém. Trung Quốc cũng cơ cấu nền kinh tế thiên về xuất khẩu xung quanh việc xuất khẩu các thành phẩm trung gian, một hiện tượng đặc biệt rõ ràng trong lĩnh vực công nghệ cao của nước này. Sự tổn thương trên càng nghiêm trọng hơn bởi sự phụ thuộc nặng nề vào nguyên liệu thô (bao gồm dầu mỏ) và những đổi mới từ nước ngoài để làm cơ sở của quá trình sản xuất trong nước.
Bởi thế, một cuộc phong tỏa nhằm vào cả ba lĩnh vực này sẽ khiến Trung Quốc phải trả một cái giá rất đắt. Tất nhiên, Trung Quốc có thể tìm ra cách để thay thế cho sự bất lực thương mại và nước này sẽ tái xây dựng nền kinh tế từ mặt đất, nhưng một cuộc xung đột tiếp diễn ra có thể sẽ tàn phá và làm kiệt quệ nền kinh tế Trung Quốc vượt quá khả năng bù đắp của Bắc Kinh.
Gây suy kiệt, buộc khuất phục
Bối cảnh, cách tiến hành và hệ quả của cuộc phong tỏa mà Mỹ tiến hành với Trung Quốc sẽ làm lún sâu vũng lầy của nền chính trị toàn cầu. Để vượt qua những thách thức của cuộc phong tỏa này, Mỹ và đồng minh sẽ phải cân bằng những hệ quả chiến lược của tác động phong tỏa với sự đóng góp vào hiệu quả tổng thể của chiến lược phong tỏa. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, sự đánh đổi này cũng sẽ rất khó khăn về mặt chính trị và sẽ yêu cầu mức độ linh hoạt cao và sự đổi mới từ phía Mỹ. Sự đánh đổi chính xác sẽ được cân nhắc kỹ lưỡng, trên tất cả những giá trị lợi ích Mỹ liên quan đến cuộc xung đột.
Tuy nhiên, cho dù có những thử thách đáng kể như vậy, một cuộc phong tỏa hàng hải vẫn có tiềm năng cả về chiến lược lẫn thực thi, cho dù chỉ trong những giới hạn nhất định. Kể cả khi đối đầu với một cuộc phong tỏa cực kỳ hiệu quả, Trung Quốc vẫn có thể đáp ứng những nhu cầu quân sự một cách vô giới hạn, và nước này cũng có thể sống sót với kho dự trữ dầu chiến lược và lượng dự trữ ngoại hối khổng lồ trong một thời gian dài. Kết quả là, tính hiệu quả của cuộc phong tỏa sẽ phụ thuộc vào khả năng tạo ra những phi tổn nghiêm trọng làm suy yếu nền kinh tế Trung Quốc.
Nếu Mỹ đủ khả năng để tập hợp một liên minh tối thiểu gồm Ấn Độ, Nhật và Nga. Việc này sẽ xoay quanh thái độ hung hăng của Trung Quốc, sau đó sự suy kiệt kinh tế thậm chí sẽ còn trầm trọng hơn khi Mỹ tập hợp được sự ủng hộ chính trị cần thiết để tiến hành chiến lược phong tỏa vô thời hạn. Trong bối cảnh đó, trong khi Mỹ không thể lợi dụng sự phụ thuộc vào thương mại hàng hải của Trung Quốc để đánh bại nước này ngay lập tức, Mỹ vẫn có thể làm tiêu hao sinh lực của Trung Quốc cho đến khi nước này phải quy phục.
* Bài viết của chuyên gia Sean Mirski là đồng tác giả của phân tích “Vấn đề nan giải ở châu Á: Trung Quốc, Ấn Độ và trật tự toàn cầu mới”