Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vừa lấy ý kiến dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều và ngưng hiệu lực thi hành khoản 11 Điều 4 Thông tư số 16/2021/TT-NHNN (Thông tư 16) quy định việc tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán trái phiếu doanh nghiệp (TPDN).
Theo cơ quan soạn thảo, kết quả thanh tra, giám sát hoạt động mua bán TPDN của các TCTD cho thấy, hiện chưa có quy định điều kiện phát hành trái phiếu về năng lực tài chính, cơ chế kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn của các khoản phát hành trái phiếu chưa chặt chẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thông qua việc phát hành nhằm mục đích đặt cọc, góp vốn, mua cổ phần, hợp tác kinh doanh, bổ sung vốn lưu động...
Bên cạnh đó, tỷ lệ trái phiếu có tài sản bảo đảm lớn nhưng thực tế chất lượng tài sản bảo đảm không cao, qua đó tiềm ẩn nhiều rủi ro về khả năng thu hồi nợ của ngân hàng khi doanh nghiệp phát hành mất khả năng thanh toán.
Tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đất thuê trả tiền hàng năm chưa đủ điều kiện để nhận làm tài sản bảo đảm, hợp đồng thế chấp chưa công chứng và chưa thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Một số doanh nghiệp phát hành và các doanh nghiệp liên quan thực hiện tăng vốn lớn trong thời gian ngắn để chứng minh năng lực tài chính.
|
Tăng cường giám sát dòng tiền trái phiếu
Cơ quan soạn thảo đề xuất bổ sung quy định TCTD chỉ được mua TPDN phát hành, trong đó có mục đích bổ sung vốn lưu động khi quản lý được nguồn thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phát hành và thu thập đầy đủ tài liệu chứng minh việc sử dụng vốn lưu động tương ứng với giá trị trái phiếu theo các vòng quay vốn lưu động trong thời gian nắm giữ trái phiếu doanh nghiệp.
Quy định này nhằm đảm bảo việc TCTD mua TPDN khi kiểm soát được đầy đủ mục đích sử dụng tiền phát hành trái phiếu cũng như đảm bảo được số tiền đầu tư trái phiếu doanh nghiệp tiếp tục được tổ chức phát hành sử dụng đúng mục đích sau vòng quay vốn lưu động đầu tiên, qua đó giám sát được việc sử dụng dòng tiền từ phát hành TPDN.
TCTD phải sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt để thanh toán số tiền mua trái phiếu doanh nghiệp cho doanh nghiệp phát hành, bên bán trái phiếu. Mục đích nhằm góp phần hỗ trợ việc theo dõi, giám sát tình hình sử dụng tiền thu được từ phát hành trái phiếu.
Khi mua TPDN phát hành trong đó có mục đích nhằm thực hiện bảo đảm nghĩa vụ, TCTD phải phong tỏa số tiền mua trái phiếu cho đến khi chấm dứt nghĩa vụ bảo đảm. Mục đích nhằm đảm bảo khả năng thu hồi số tiền mua trái phiếu doanh nghiệp của TCTD.
TCTD cũng có quyền, nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền thu từ trái phiếu của doanh nghiệp phát hành đảm bảo số tiền thu từ phát hành trái phiếu được sử dụng đúng mục đích tại phương án, cam kết với TCTD và theo quy định nội bộ.
Trường hợp phát hiện doanh nghiệp phát hành, bên nhận bảo đảm sử dụng tiền thu từ phát hành trái phiếu không đúng mục đích tại phương án, cam kết thì TCTD yêu cầu doanh nghiệp phát hành mua lại trái phiếu trước hạn.
|
Hỗ trợ thanh khoản
Dự thảo cũng đề xuất ngưng hiệu lực thi hành đối với quy định tại khoản 11 Điều 4 Thông tư số 16 đến hết ngày 31/12/2023 để gia tăng thanh khoản, góp phần hỗ trợ thị trường TPDN.
Trong thời gian kể từ ngày thông tư có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31/12/2023, TCTD được mua lại TPDN chưa niêm yết đã bán và/hoặc TPDN chưa niêm yết được phát hành cùng lô/cùng đợt phát hành với TPDN chưa niêm yết mà TCTD đã bán khi đáp ứng một số quy định.
Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu (bao gồm cả khối lượng trái phiếu dự kiến phát hành) của doanh nghiệp phát hành không vượt quá 5 lần vốn chủ sở hữu theo báo cáo tài chính quý gần nhất tại thời điểm phát hành đã được kiểm toán tình hình sử dụng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp phát hành.
TCTD không được mua TPDN phát hành trong đó có mục đích để góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp tại doanh nghiệp khác; mục đích để hợp tác kinh doanh, hợp tác đầu tư với doanh nghiệp khác. Theo NHNN, đây là những nhu cầu vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro về khả năng quản lý vốn của tổ chức phát hành và việc sử dụng vốn đúng mục đích của doanh nghiệp nhận hợp tác kinh doanh, hợp tác đầu tư.
Khoản 11 điều 4 của Thông tư số 16 quy định, trong vòng 12 tháng sau khi bán trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc chưa đăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch Upcom, TCTD không được mua trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết mà TCTD đã bán và/hoặc trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết được phát hành cùng lô/cùng đợt phát hành với trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết mà tổ chức tín dụng đã bán.
Sau 12 tháng kể từ khi bán trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết, TCTD chỉ được mua trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết mà TCTD đã bán và/hoặc trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết được phát hành cùng lô/cùng đợt phát hành với trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết mà tổ chức tín dụng đã bán khi đáp ứng một số quy định./.