|
Cầu Long Biên: Cần ứng xử thế nào lúc này? |
Hẳn sẽ có rất nhiều người cảm thấy bất ngờ khi phần lớn những Nhà thở cổ ở Việt Nam đều không nằm trong diện di sản. Từ Bắc xuống Nam, Nhà thờ Lớn Hà Nội, Nhà thờ chính tòa Bùi Chu, Nhà thờ gỗ Kontum, dù rất đẹp và nổi tiếng nhưng chúng chưa được coi là công trình di sản về mặt hành chính.
Điều này đến từ tâm lý e ngại của Giáo xứ trước những thủ tục pháp lý nhiều rủi ro gây nên những vấn đề về quyền sử dụng. Thêm vào đó là cả những khó khăn về phát triển của các Nhà thờ trong điều kiện thiếu quỹ đất. Thủ tục chứng nhận di sản ở nước ta đang vận hành theo kiểu từ dưới lên trên. Có nghĩa là chủ sở hữu cần làm thủ tục gửi các cấp có thẩm quyền để được xem xét cấp chứng nhận di sản. Việc đứng vào hàng ngũ di sản đối với các chủ sở hữu thì đều là vinh dự lớn, tuy nhiên, điều này cũng trói buộc người chủ vào những quy định khắt khe theo các Quy chế Bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích. Đi kèm với đó, là cả những đòi hỏi về nguồn lực kinh tế dồi dào mà không phải chủ sở hữu di sản nào cũng sẵn có.
Đối với các công trình tôn giáo như Nhà thờ, trước hết ta cần hiểu các công trình thuộc về quyền sử dụng và quản lý của cộng đồng giáo dân, Giáo xứ, Giáo phận, Giáo hội. Các Giáo xứ ở nước ta nhìn chung kinh tế không dư giả gì, chính vì vậy họ thường chọn giải pháp “đứng bên lề di sản”. Bởi vì khi đó, họ chỉ cần đảm bảo các vấn đề có tính kĩ thuật và an toàn công trình mà thôi.
Điều này đã rõ ràng, đứng trước các vấn đề về phá hủy công trình lâu đời do thiếu quỹ đất xây dựng công trình mới thì chúng ta phải cân nhắc sao cho giúp được công trình một phần thì phải giúp cộng đồng giáo dân đến hai ba phần. Điều này chắc chắn chưa thể giải quyết ngay trong ngày một ngày hai, nó đòi hỏi sự kiên nhẫn từ cả bên giúp đỡ và bên nhận sự giúp đỡ.
|
Ảnh nhà thờ chính tòa Bùi Chu hiện nay
|
Bên cạnh đó, có nhiều người đã nhận định rằng di sản chỉ được coi là Di sản khi nó nhận được giấy chứng nhận hoặc họ khẳng định rằng vận mệnh của một công trình cũ chỉ có thể được phán quyết bởi đối tượng sở hữu. Những nhận định đó thực sự là sai lầm. Dưới đây, tôi xin chia sẻ một tình huống mà cá nhân tôi từng có trải nghiệm và học hỏi được nhiều điều từ đó.
Bản thân việc giúp ra sao, tiếp nhận sự giúp đỡ ra sao cũng có đến năm ngả bảy đường.
Khi chủ sở hữu không có ý định bảo tồn di sản
Điều này xảy ra ở trường hợp hai tượng Phật khổng lồ ở thung lũng Bamiyan. Vào năm 2015, cá nhân tôi thực hiện một đồ án cuộc thi tại đây nhằm đưa ra đề xuất thiết kế cho trung tâm văn hóa Bamyan. Bộ đề xuất này lọt vào vòng chung kết (danh sách rút gọn 25 bài từ 1070 bài), nhờ vậy tôi và nhóm có cơ hội làm việc sâu hơn với UNESCO và Văn phòng Tổng thống Afghanistan để rồi nắm được nhiều thông tin hơn.
Trước hết, phải nói rằng tượng Phật ở thung lũng Bamiyan là những cấu trúc kì vĩ cao gần 50 mét bằng đá sa thạch được điêu khắc trực tiếp vào trong lòng thung lũng. Chúng là hai tượng Phật lớn nhất Thế giới và được coi là kì quan về chế tác điêu khắc. Trong giai đoạn nội chiến, Taliban đã sử dụng xe tăng và pháo phòng không để phá hủy cấu trúc 1700 năm tuổi này. Điều kì lạ là trong lần tiếp xúc đầu tiên với Bộ trưởng Ngoại giao, ông Mullah Wakil đã tuyên bố với UNESCO: "Chúng tôi (tức chính phủ Afghanistan) thừa nhận các di tích này là di sản văn hóa của Afghanistan, nhưng nó mâu thuẫn với niềm tin của chúng tôi và chúng tôi không còn cần chúng nữa’’.
Đây là một tình huống điển hình khi chủ sở hữu vì một lí do nào đó đã không còn cần đến di sản.
Tất nhiên, nếu áp dụng những lí do cứng nhắc thì UNESCO cũng sẽ rút lui, còn gì để bàn nữa đây? Chủ nhà người ta đã nói đến thế rồi?. Nhưng rõ ràng UNESCO đã không làm vậy. Họ vẫn tìm cách can thiệp để điều chỉnh thái độ của chính phủ Afghanistan theo hướng nhân bản hơn bằng việc tổ chức một cuộc thi để xây dựng một trung tâm văn hóa nằm đối diện với hai tàn tích kể trên. Nhờ vậy mà tôi có dịp được làm việc trong đồ án này. Cuộc thi ở thể thức chuyên nghiệp đã thu hút hơn 1000 đề xuất từ khắp nơi thế giới và làm dấy lên những thảo luận rất nghiêm túc của các chuyên gia hàng đầu cho vấn đề về Bảo tồn ở Bamyan. Trong cùng thời gian, UNESCO cũng liên tục tác động một cách mềm dẻo đến chính phủ để họ dành sự quan tâm tương xứng.
Có một lần trao đổi với UNESCO, tôi có hỏi về vấn đề này và họ khẳng định rằng không phải chủ sở hữu nào cũng ý thức được chính xác giá trị của di sản mà mình đang có. Khi ấy, nhiệm vụ của UNESCO là cung cấp, vận động hành lang để các chủ sở hữu có cái nhìn đầy đủ hơn. Cuối cùng UNESCO đã chứng minh rằng phương pháp của họ là đúng, bằng chứng là các khoản đầu tư quốc tế vào Bamiyan cũng như sự chuyển dịch trong tầm nhìn của chính quyền Afghanistan non trẻ.
Những năm chiến tranh loạn lạc không chỉ gây ra tổn thất về nhân mạng, nó còn để lại những lỗ hổng lớn về kiến thức văn hóa cho đối tượng chủ sở hữu di sản. Khi ấy chúng tôi đã trung thực và thẳng thắn để nhìn vào vấn đề này như vậy.
|
Ảnh chụp tượng Phật ở thung lũng Bamiyan trước và sau chiến tranh. Ảnh: UNESCO
|
Vì sao di sản văn hóa luôn dễ bị tổn thương?
Trước tiên cần hiểu Di sản Văn hóa là gì. Chúng ta nhắc đến chúng liên tục, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng hiểu về nó theo cách đúng đắn.
“Văn hóa” được sử dụng nhằm chỉ những nỗ lực trí tuệ tột cùng để theo đuổi sự hoàn hảo và vẻ đẹp. Nhà phê bình Matthew Arnold đã từng nói "Văn hóa là điều tốt nhất từng được nghĩ ra và biết đến trên thế giới’’. Di sản Văn hóa thường được hiểu là di sản xây dựng, di tích liên quan đến Văn hóa như bảo tàng, nhà hát, công trình tôn giáo, công trình kiến trúc cổ xưa… ngoài ra, chúng còn bao gồm cả những đối tượng phi vật chất như những vở kịch, câu chuyện, điệu nhảy, thơ ca, hò vè, công thức nấu ăn, thời tranh, âm nhạc..v.v.
Tất cả các chế độ xã hội, từ khi loài người xuất hiện đến nay. Từ buổi bình minh hoang dã cho đến thời hiện đại, đều có ý thức rõ ràng trong việc bảo tồn di sản văn hóa của họ. Chủ yếu vì lí do nghiên cứu lịch sử, giáo dục tư tưởng, củng cố bản sắc trước những hiểm họa xung đột và chiến tranh. Có thể khẳng định rằng, không có bản sắc thì không có chiến tranh là vì vậy. Các tòa nhà là Di tích và Biểu tượng Văn hóa dễ nhận ra nhất của loài người trong mọi thời đại. Chính vì lẽ đó, chúng thường trở thành mục tiêu của bạo lực và áp bức nhằm tìm cách thủ tiêu và giày xéo các biểu tượng có giá trị của kẻ thù.
Những gì mà ISIS làm ở Mosul là một ví dụ. Tôi cũng từng giành được một giải thưởng kiến trúc trong một đồ án ở Mosul. Qua nghiên cứu, có thể thấy rằng các bức tượng cổ 3000 năm trong bảo tàng Mosul là những đối tượng đầu tiên bị phá hủy (bằng búa tạ) khi IS chiếm đóng thành phố này. Có cách nào để chiến thắng một dân tộc nhanh bằng việc thủ tiêu toàn bộ những giá trị và bản sắc của dân tộc đó?
|
Các cổ vật bị IS phá hủy trong các nhà bảo tàng ở Mosul. Ảnh: The Independent |
Trong thời kì Đại Cách mạng ở Trung Quốc, Mao đã cho Hồng vệ binh phá hủy tất cả các đình, chùa, đền, miếu của Phật giáo mà họ có thể tìm được. Mộ phần Khổng tử bị lật lên dưới bàn tay hung tợn của những thanh niên mười tám đôi mươi. Hàng trăm nghìn trí thức, nhà khoa học, nhà cải cách bị bức tử, bị sát hại dã man, hàng chục nghìn nhà báo bị cầm tù. Có cách nào để thuần hóa một dân tộc nhanh hơn việc tiêu diệt toàn bộ đầu mối tri thức và đức tin ngàn đời của dân tộc đó?
Ở Pháp, hầu hết các tượng trang trí trong các nhà thờ đều mất đầu. Những người cách mạng vô sản Pháp đã làm điều đó, không phải vì vấn đề đức tin, mà là để gửi đi tuyên ngôn chính trị với tầng lớp thống trị.
Ở Đức, dưới thời Quốc xã, Đảng Quốc xã không chỉ tiêu hủy sách và các tác phẩm của các triết gia (với vụ đốt sách khủng khiếp nhất thời hiện đại – diễn ra ở quảng trường Bebelplazt), hơn thế nữa, họ còn chủ động không kích cả những biểu tượng văn hóa của nước khác, nạn nhân điển hình là nước Anh.
Tất cả những việc tương tự như vậy xảy ra ở khắp mọi nơi, dưới mọi chế độ xã hội, trong mọi giai đoạn lịch sử loài người.
|
Hồng vệ binh phát biểu trong vụ phá mộ Khổng Tử. Ảnh: trithucvn.net
|
Tất cả những hoạt động ấy luôn để lại những thiệt hại nặng nề cho con người bởi chúng đã tạo ra những ấn tượng kinh hoàng, nó đánh gục tinh thần những kẻ gan góc nhất. Một sư đoàn tinh nhuệ có thể nhanh chóng bị loại khỏi vòng chiến khi biết thủ đô của mình đang chịu cảnh giày xéo dưới gót chân quân thù.
Trong các tác phẩm điện ảnh có chủ đề Ngày tận thế, các đạo diễn không mô tả cảnh chết chóc. Thay vào đó, họ đưa ra hình ảnh về bàn tay cầm đuốc của Nữ thần Tự do nhô lên từ đống đổ nát, một Kim tự tháp chìm trong cát ở Ai cập hoặc hình ảnh tháp Effiel bị gãy làm đôi. Tất cả những hình ấy gây nên ấn tượng khủng khiếp hơn nhiều so với hình ảnh cái chết. Những biểu tượng điêu tàn không chỉ thể hiện sự tận diệt của con người ở thời điểm hiện tại mà chúng còn biểu đạt sự hủy diệt đối với các thế hệ ở tương lai và trong quá khứ. Người Mỹ thường làm phim có sức khái quát về hình ảnh như vậy.
Do đó, Di sản có thể thuộc về một chủ sở hữu nhất định nhưng tính biểu tượng mà nó lưu giữ thì là của Chung. Chúng ta đã từng chứng kiến những làn sóng phản đối lớn từ cộng đồng quốc tế trước những dự án xây dựng và khai thác du lịch bên trong hang Sơn Đoòng là vì vậy. Đó chính là ‘’thương vay khóc mướn”. Đức chúa Giê -su được tin yêu cũng bởi cái lẽ ‘’thương vay khóc mướn’’ của Ngài.
Cẩn trọng với văn hóa của chính mình
Bài viết đến đây đã dài, ta đã khái quát lí do tại sao các công trình lâu đời, di sản, thường là những đối tượng dễ bị tổn thương trong tất cả các xã hội từ thời loạn đến thời bình. Có những lúc chúng là mục tiêu của Kẻ thù trong chiến tranh, có những lúc chúng là mục tiêu của Giới Chính trị và cả những lúc chúng là mục tiêu của Sự thiếu hiểu biết.
Vì vậy, hãy thận trọng và cùng giúp đỡ nhau, ta có thể tạm gạt bỏ sự khác biệt về ý thức hệ, tạm gác lại chuyện di sản ấy đã được cấp giấy phép hay chưa cấp, tạm gác lại việc công trình đó thuộc về ai và ai mới có quyền định đoạt. Đứng trước những Di sản Văn hóa thì đời người thực quá đỗi nhỏ nhoi.
‘’Văn hóa’’- như đã trình bày ở trên, nó là cái chung và mọi người cần nỗ lực để gìn giữ cái thứ mà chúng ta gọi là ‘’những điều tốt đẹp nhất từng được tạo ra và biết đến trên thế giới này’’.
Rất mong bài viết này sẽ được chia sẻ đến bà con bà con Công giáo, các Đức cha và cả bà con bên lương nữa.
Nhân những sự việc có liên quan đến các di sản xảy ra một vài năm qua ở Việt Nam và gần đây là Nhà thờ Bùi Chu. Những sự kiện đó khiến tôi nhớ đến câu chuyện riêng của mình và một người bạn. Tôi vẫn còn nhớ, năm đó nhóm tôi làm việc với Văn phòng Tổng thống Afghanistan thông qua một tình nguyện viên thông dịch là anh Amin. Khi xem bức ảnh, Anh nói với tôi: ‘’nhìn ra tinh thần Afghan lắm’’, tôi chỉ cười và bảo anh ‘’Kabul ở trong trái tim tao” (một câu thoại tôi yêu thích sau khi đọc các tác phẩm văn chương Afghanistan), tôi đã không ngờ rằng đó là lần cuối cùng chúng tôi trao đổi với nhau. Một tháng sau, vào một ngày trung tuần tháng Tư năm 2015, Armin đã tử nạn trong một vụ đánh bom khi đang trên đường đi công tác. Về sau mỗi khi nhìn vào bức ảnh này, tôi lại nhớ đến anh ấy, một người bạn đạo Hồi đã nỗ lực quên mình cho các hoạt động Bảo tồn hai bức tượng của Phật giáo – một tôn giáo mà anh vốn không thuộc về.
Ở nhiều nơi, có nhiều người đã hi sinh cả tính mạng mình cho việc bảo vệ Di sản Văn hóa như vậy.
|
Ảnh đồ án nghiên cứu của người viết đã được nêu trong bài. Phương án kiến trúc cho trung tâm Văn hóa Bamiyan tại Afghanistan, hình ảnh được trích ra từ một ấn phẩm triển lãm tại UNESCO. Ảnh: lequang-architect.
|
Tác giả là Kiến trúc sư Lê Quang, Thạc Sĩ chuyên môn cao tại Học viện Liên Bang Kĩ thuật Thụy Sĩ ETH Zurich và Khoa sau ĐH, Khoa Thiết Kế, Đại học Harvard, Mỹ. Hiện nay anh đang làm việc tại CHLB Đức. Các nghiên cứu của anh tập trung vào lĩnh vực nhà ở, công trình công cộng. Ngoài ra anh còn làm việc trong lĩnh vực về cải tạo, tái thiết và tái định hướng các thành phố. Đồ án “Những bức tường ở Berlin” do anh chủ trì thiết kế được đánh giá là một trong những đồ án sáng tạo nhất tại Triển lãm Kiến trúc Thế giới 2016 tại Berlin. Ngoài thực hành kiến trúc, anh còn tham gia thuyết trình trong các sự kiện kiến trúc, học thuật diễn ra ở Đức và ở Việt Nam. |