Nan đề lạm phát ở các nước giàu

VietTimes – Sau 1 năm mở 'chiến dịch' chống lạm phát, Fed và ngân hàng trung ương ở các nước phát triển vẫn chưa thể tuyên bố chiến thắng.
Lạm phát cao vẫn dai dẳng ở cả Mỹ và các nước châu Âu (Ảnh: PhilInquirer)

Không lặp lại sai lầm

Các ngân hàng trung ương ở nhiều nơi trên thế giới từng đánh giá thấp lạm phát và cố gắng không lặp lại sai lầm đó thêm một lần nữa, theo The Wall Street Journal.

Ở các nước phát triển, một số ngân hàng trung ương đã thay đổi đáng kể dự báo về lạm phát. Họ tiếp tục nâng lãi suất và phát đi thông điệp rằng mặt bằng lãi suất cao sẽ được duy trì trong dài hạn.

Sau 1 năm mở 'chiến dịch' chống lạm phát, các nhà hoạch định chính sách vẫn chưa thể tuyên bố chiến thắng. Ở Mỹ và châu Âu, lạm phát cơ bản vẫn ở mức trên 5% dù giá năng lượng và thực phẩm đã giảm so với năm ngoái.

Lạm phát cơ bản, đã loại trừ giá thực phẩm và năng lượng (Ảnh: OECD)

Một số dữ liệu cho thấy tác động của các đợt nâng lãi suất quyết liệt vào năm ngoái đã suy yếu, đặc biệt là ở thị trường nhà ở và số liệu việc làm.

Khu vực Eurozone đã chứng kiến tăng trưởng suy giảm, mà giới kinh tế học thường gọi là suy thoái kỹ thuật, nhưng họ vẫn tạo ra thêm gần 1 triệu việc làm trong quý đầu năm 2023. Nền kinh tế Mỹ cũng tạo ra thêm gần 300.000 việc làm trong tháng qua. Trong khi kinh tế Thụy Điển, Nhật Bản và Anh bất ngờ hồi phục.

Những diễn biến trên đặt ra nan đề cho các ngân hàng trung ương lớn. Họ cần phải suy xét xem lạm phát đang chững lại (để tiếp tục nâng lãi suất) hay nó đã thực sự đã bắt đầu hạ nhiệt. Nếu lựa chọn sai, các ngân hàng trung ương sẽ đẩy các nước giàu vào một cuộc suy thoái nghiêm trọng hoặc phải gánh chịu lạm phát dai dẳng.

"Các ngân hàng trung ương đang rơi vào tình huống khó xử. Họ có thể phạm sai lầm lớn dù đi theo cách nào", Stefan Gerlach, cựu phó thống đốc Ngân hàng trung ương Ireland, nói.

Vị chuyên gia cho rằng, vấn đề trở nên nan giải khi các ngân hàng trung ương không sớm nhận ra nguy cơ lạm phát. Điều đó có thể khiến các nhà chính sách hoài nghi về những quyết định của mình.

Tuần trước, Fed cho biết có thể sẽ tăng lãi suất thêm 2 lần nữa trong năm nay, đẩy mặt bằng lãi suất của Mỹ lên mức cao nhất trong vòng 22 năm trở lại đây. Lạm phát lõi 'vẫn ở mức cao và chưa có dấu hiệu giảm', báo cáo tiền tệ gần nhất của Fed có đoạn.

Ngân hàng trung ương Australia và Canada cũng gây bất ngờ khi tiếp tục nâng lãi suất. Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) tuần trước nâng lãi suất thêm 0,25%. “Chúng tôi không nghĩ đến việc ngừng lại”, Chủ tịch ECB Christine Lagard cho hay. Ngân hàng trung ương Anh (BoE) cũng phát tín hiệu sẽ nâng lãi suất lần thứ 13 liên tiếp.

Lạm phát cao lan rộng ở châu Âu (Ảnh: ECB)

Kiên nhẫn

Các ngân hàng trung ương sẽ phải chờ đợi thêm để đánh giá tác động của các đợt nâng lãi suất đối với nền kinh tế. Họ có nhiều lý do để làm điều đó.

Trước hết, tiền tiết kiệm dôi thừa của các hộ gia đình và doanh nghiệp trong giai đoạn dịch COVID-19 có thể kích thích chi tiêu và giảm tác động khi chi phí vay mượn tăng lên. Đối với các doanh nghiệp có lợi nhuận, họ vẫn còn nguồn lực để giữ chân người lao động trong bối cảnh kinh tế khó khăn. Khi nguồn dự trữ cạn kiệt, doanh nghiệp và hộ gia đình có thể sẽ giảm chi tiêu, qua đó giúp lạm phát hạ nhiệt.

Thứ hai, các đợt nâng lãi suất cũng có thể chỉ mới bắt đầu phát huy tác dụng. Doanh nghiệp và hộ gia đình có thể không phản ứng khi chi phí vay mượn tăng từ 0 lên 1%, nhưng họ có thể cắt giảm chi tiêu nhiều hơn khi lãi suất tăng lên 5%.

Quan trọng hơn, các nền kinh tế vẫn đang phục hồi sau đại dịch. Việc nền kinh tế Trung Quốc mở cửa trở lại đã hỗ trợ đà tăng trưởng trên khắp thế giới và có thể tạo cú hích nhờ các biện pháp kích thích mới.

Nhiều dịch vụ như nhà hàng và bán lẻ vẫn có dư địa phục hồi sau đà sụt giảm tồi tệ trong giai đoạn phong toả chống dịch và giãn cách xã hội, theo Holger Schmieding - chuyên gia kinh tế trưởng của Berenberg Bank. Ở Anh, sản lượng các ngành dịch vụ tiếp xúc gần với khách hàng vẫn thấp hơn 8,7% nếu so với giai đoạn trước dịch, trong khi sản lượng của tất cả các lĩnh vực khác cao hơn 1,7%.

Chi tiêu ở nhóm dịch vụ này tăng lên sẽ làm giảm tác động của các đợt nâng lãi suất trong một khoảng thời gian. Nhưng hiệu ứng này sẽ không kéo dài nếu như đà tăng trưởng kinh tế tiếp tục giảm – do thu nhập và chi tiêu giảm.

“Điểm chính bây giờ là sự thẩm thấu của các quyết định tiền tệ trước đó của chúng tôi, được phản ánh rõ ràng trong các điều kiện tài chính. Nhưng tầm ảnh hưởng kinh tế như vậy có thể phải mất đến 2 năm mới có thể cảm nhận được rõ ràng”, Francois Villeroy de Galhau, quan chức thuộc uỷ ban hoạch định lãi suất của ECB, cho hay.

Doanh nghiệp và hộ gia đình thích nghi với lạm phát là điều mà các chuyên gia quan ngại nhất (Ảnh: Bloomberg)

Thích nghi với lạm phát?

Tuy nhiên, có nhiều đánh giá khác cho thấy lạm phát có thể vẫn duy trì ở mức cao.

Một số quan chức Fed tin rằng, lãi suất đang tác động đến nền kinh tế nhanh hơn so với quá khứ, có nghĩa rằng những đợt nâng lãi suất trước đây có thể đã phát huy tác dụng, và cần phải có thêm những đợt nâng lãi suất khác.

Tại sao lại như vậy? Giới chức ngân hàng trung ương Mỹ giờ tuyên bố rõ ràng về điều họ sẽ làm và dự định làm trong tương lai, cho phép các nhà đầu tư phản ứng gần như tức thì.

Trong chu kỳ nâng lãi suất những năm 1990, Fed thậm chí không thông báo cho các nhà đầu tư về những quyết định chính sách mới nhất của họ. Hậu quả là, lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm tăng 200 điểm cơ bản trong tháng 3/2022, trước khi Fed kịp nâng lãi suất.

Hơn nữa, những chính sách mới của ngân hàng trung ương có thể làm giảm ảnh hưởng của các đợt nâng lãi suất.

Các nhà kinh tế học của Bundesbank trong một nghiên cứu mới cho rằng, khi lãi suất tăng, các ngân hàng sẽ có lợi hơn nhiều hơn nhờ vào lượng dự trữ dôi thừa vượt mức mà họ gửi tại các ngân hàng trung ương, điều phản ánh lại các chương trình mua tài sản quy mô lớn của các ngân hàng trung ương. Điều này giúp các ngân hàng tiếp tục mở rộng hoạt động cho vay.

Quan trọng hơn, doanh nghiệp và hộ gia đình có thể đã thích nghi với một thế giới mới với giá cả tăng mạnh, bằng cách thay đổi vĩnh viễn hành vi của họ. Nếu điều này là thực, việc quay trở lại với thế giới cũ với lạm phát thấp và ổn định là rất khó khăn, đòi hỏi lãi suất phải được nâng cao hơn nhiều, theo Joerg Kraemer, trưởng kinh tế gia đến từ Commerzbank, trụ sở tại Frankfurt (Đức).

Hộ gia đình và doanh nghiệp cần phải phản ứng quyết liệt hoặc chịu rủi ro mất sức mua. Doanh nghiệp có thể dễ dàng điều biện minh cho việc tăng giá sản phẩm của họ nếu như các bên khác cũng làm tương tự. Nhiều tổ chức công đoàn đang đấu tranh để bồi thường cho người lao động theo những cách chưa từng thấy trong nhiều thập kỷ và thu hút được nhiều thành viên mới.

Những sự thay đổi này có nghĩa rằng các ngân hàng trung ương sẽ cần phải hành động quyết liệt hơn nữa, đẩy các nền kinh tế vào chỗ suy thoái sâu hơn để phá vỡ tư tưởng lạm phát mới của người dân và doanh nghiệp, ông Kraemer nói. Ví dụ, ECB có thể cần phải nâng lãi suất lên 5% từ mức 3,5% hiện tại.

Các nhà đầu tư hiện tại dường như đang nghi ngờ về những tuyên bố cứng rắn mà các ngân hàng trung ương đưa ra. Các thị trường chứng khoán ở cả hai bờ Đại Tây Dương vẫn đang khoẻ mạnh, và giới đầu tư đang đặt cược vào khả năng hạ lãi suất trong năm tới. Theo một số chuyên gia kinh tế, đó có thể là một sai lầm.

“Điểm mấu chốt là lạm phát ở mức 5% vẫn còn quá cao, và rõ ràng là các thị trường đang đánh giá thấp quyết tâm của Fed trong việc giảm lạm phát xuống mức mục tiêu 2%”, Torsten Slok, Kinh tế trưởng đến từ Appollo Global Management, nhận định./.

Theo Wall Street Journal