Ông gọi Trung Quốc là “kẻ khiêu khích và bành trướng”, cáo buộc Bắc Kinh “xây trường thành cát” và quân sự hóa Biển Đông. Đó là Tư lệnh chỉ huy các lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương, đô đốc Harry B Harris, người khiến cả Bắc Kinh lẫn Washington đau đầu với những phát ngôn mạnh mẽ hơn cả tổng tư lệnh, tổng thống Obama.
New York Times nhìn nhận, đô đốc Harris đã không hề xin lỗi về sự bộc trực của ông vốn làm bối rối sự thận trọng của Nhà Trắng. Trong bối cảnh Trung Quốc xây dựng các pháo đài quân sự trên Biển Đông, một hải lộ chiến lược từ lâu do Mỹ thống trị, đô đốc Harris đã thẳng thắn phát biểu trước quốc hội, công chúng Mỹ cũng như các đồng minh về mối đe dọa Trung Quốc.
“Đó là một sự căng thẳng tự nhiên giữa các bộ phận của chính quyền và các chỉ huy quân sự, và tôi cho rằng đó là một sự căng thẳng lành mạnh. Tôi đã phát biểu quan điểm của mình trong một số cuộc gặp gỡ riêng tư với giới chỉ huy quốc gia. Một số ý kiến của tôi được tiếp thu, một số thì không”, ông Harris trả lời phỏng vấn tại Trân Châu Cảng.
Với Trung Quốc, vị đô đốc Mỹ 59 tuổi không chỉ là một người phát ngôn cứng rắn. Ông Harris sinh ra tại Nhật Bản, là con một bà mẹ Nhật và người cha Mỹ từng là một chỉ huy trong lực lượng hải quân Mỹ. Trung Quốc dĩ nhiên rất nhạy cảm với nguồn gốc xuất thân của tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ.
“Một số có thể nói rằng sự cường điệu hóa về lai lịch nguồn gốc Nhật của một viên tướng Mỹ là hơi quá. Nhưng để hiểu Mỹ đột ngột leo thang căng thẳng ở Biển Đông, đó đơn giản không thể bỏ qua huyết thống, lai lịch, khuynh hướng và những quan điểm chính trị của đô đốc Harris”, hãng thông tấn nhà nước Trung Quốc Xinhua cho biết.
Đô đốc Harris cho rằng những bình luận mang tính xúc phạm của phía Trung Quốc có hai mục tiêu. Trước hết nhằm chứng minh bộ tư lệnh Thái Bình Dương chia rẽ với phần còn lại của chính phủ Mỹ, một ý tưởng hoàn toàn sai sự thật. Thứ hai là Bắc Kinh có ý đồ bôi nhọ cá nhân ông.
Một tòa án của Liên hợp quốc tại The Hague được trông đợi sẽ sớm ra phán quyết về vụ kiện của Philippines, có thể khiến việc bồi đắp củng cố các đảo nhân tạo gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông trở nên bất hợp pháp. Tòa có thể tuyên bố yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh với hầu như toàn bộ Biển Đông là vô giá trị.
Phán quyết của tòa án quốc tế được dư luận rộng rãi cho là sẽ bất lợi với Bắc Kinh, với khả năng gây ra những hậu quả tiềm tàng với quan hệ ngày càng căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ. Trung Quốc phản ứng quyết liệt ra sao trước phán quyết của tòa án là mối lo lớn của đô đốc Harris, người có nhiệm vụ thực hiện các lựa chọn quân sự nếu Trung Quốc liều gây hấn trong ngắn hạn hay dài dạn, với nỗ lực kiểm soát tuyến đường biển trị giá hàng ngàn tỷ USD giao thương mỗi năm.
Các nhà bình luận quân sự Trung Quốc cho biết Bắc Kinh có kế hoạch biến bãi cạn Scarborough chiếm được của Philippines năm 2012 trở thành một pháo đài. Chỉ nằm cách bờ biển Philippines 120 dặm, căn cứ quân sự này sẽ là một mối đe dọa tiềm tàng đối với đồng minh Mỹ. Bắc Kinh cũng có thể tuyên bố thiết lập một vùng nhận diện phòng không trên Biển Đông, buộc các máy bay dân sự phải bay vòng dài hơn với chi phí đắt đỏ hơn để tránh nguy cơ bị không quân Trung Quốc ngăn chặn.
Nguy cơ cao đến nỗi tổng thống Obama trong cuộc gặp tại Washington đã cảnh báo ông Tập Cận Bình rằng chớ có động thái gì tại Scarborough hoặc lập một vùng nhận diện phòng không, một quan chức Mỹ giấu tên cho biết. Không bên nào muốn xung đột về những bãi đá trên Biển Đông. Nhưng khả năng này vẫn cần phải tính đến và bãi cạn Scarborough hiện đang là địa điểm các quan chức Lầu Năm Góc tuyên bố Mỹ có thể bày tỏ lập trường.
Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ, tướngJoseph F. Dunford gần đây cũng đã hỏi đô đốc Harris về vấn đề này khi hai nhân vật quyền lực gặp nhau ở Lầu Năm Góc. Một nhà báo đã hóng được nhưng không nghe rõ câu trả lời của ông Harris. Sau đó, được hỏi về việc Mỹ có tuyên chiến hay không đối với bãi cạn Scarborough Shoal, vị đô đốc chỉ cười và nói rằng ông có công cụ để bảo vệ các lợi ích của Mỹ. “Với Trung Quốc, chúng tôi đã sẵn sàng cho mọi tình huống trên thế mạnh. Tất cả mọi tình huống cho dù đó là Scarborough nói riêng hay Biển Đông nói chung, hoặc là tấn công mạng”, đô đốc Harris tuyên bố.
Ông cho biết không lo lắng nhiều về nguy cơ tính toán lầm ở Biển Đông giữa quân đội Trung Quốc và lực lượng các nước khác. Theo đô đốc Harris, nguy cơ lớn hơn là đụng độ do các tàu bán quân sự Trung Quốc gây ra có thể buộc quân đội Mỹ phải nhảy vào bảo vệ các đồng minh. Công việc của một tư lệnh chiến đấu quân đội Mỹ là phục vụ với tư cách người lính, nhà ngoại giao và nhà tham mưu cho chỉ hai ông chủ của mình là tổng thống và bộ trưởng quốc phòng.
Nhưng với đô đốc Harris, ông còn thêm một gương mặt khác là người truyền đạt thông điệp. “Chúng ta cần truyền thông rõ ràng với những người nghe chính yếu, bao gồm các đồng minh, đối tác và cả những địch thủ tiềm tàng”, ông nói. Dù đi đâu, đô đốc Harris cũng chỉ rõ trách nhiệm của ông phụ trách không chỉ Trung Quốc mà còn cả mối đe dọa hiện tồn Triều Tiên và hơn thế nữa. Từ Bollywood đến Hollywood, từ gấu Bắc Cực cho tới chim cánh cụt Nam Cực, như có người bông đùa.
Gần đây, đô đốc Harris lại chuyển tải thông điệp của mình với 30 thành viên của Hội đồng Đối ngoại Mỹ tại New York. Sau đó, ông tới Malaysia để lên một chiếc máy bay trinh sát P-8 cùng với các quan chức quốc phòng nước này nhằm thuyết phục Malaysia xích gần Mỹ hơn trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, chứ không phải với người làm ơn kinh tế cho Malaysia là Trung Quốc. Báo chí Mỹ cho biết, trong phòng làm việc của ông luôn treo một tấm bản đồ Biển Đông, trên đó khoanh vòng đen 3 đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa, nơi Trung Quốc xây đường băng và các cơ sở quân sự khác. Đô đốc Harris vạch rõ đó chính là các căn cứ quân sự của Trung Quốc.
Sau khi tốt nghiệp Học viện hải quân Mỹ tại Annapolis, ông Harris được huấn luyện trong vai trò sĩ quan không quân hải quân. Năm 1991, ông bay trên Vùng Vịnh trong một cuộc hải chiến trong đó Mỹ nhấn chìm hạm đội Iraq trong vòng 48 tiếng. Khoảng 10 năm trước, ông Harris là chỉ huy căn cứ Vịnh Guantánamo. Ông nghiên cứu lịch sử chiến tranh tại Đại học Oxford. Sau đó ông trở thành cố vấn quân sự cho Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton.