|
Nhà băng nào dẫn đầu về thị phần cho vay? (Nguồn: Internet) |
Theo báo cáo mới nhất về ngành ngân hàng của CTCP Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), thị trường tín dụng đã chứng kiến nhiều thay đổi trong 5 năm qua. Đa phần các ngân hàng quốc doanh tăng trưởng tín dụng thấp hơn ngành, trong khi các ngân hàng tư nhân duy trì tăng trưởng cao.
VDSC cho biết, tính đến năm 2020, 26 ngân hàng niêm yết chiếm 71,3% tổng thị phần tín dụng, tăng 5,9% so với cuối năm 2015 (65,4%). Nếu tính cả Agribank – một trong hai nhà băng cho vay lớn nhất thị trường, 27 ngân hàng này chiếm 84,5% tổng thị phần tín dụng năm 2020.
Tuy nhiên, phần lớn thị phần gia tăng những năm qua thuộc về các ngân hàng thương mại tư nhân, trong khi thị phần tín dụng của các ngân hàng quốc doanh bị thu hẹp.
Thị trường tín dụng có thể được chia thành 3 nhóm, lần lượt là nhóm ngân hàng quốc doanh, nhóm ngân hàng tư nhân nắm giữ trên 2% thị phần và nhóm có thị phần tín dụng trên 1%.
|
Các ngân hàng quốc doanh đang để mất thị phần cho vay
VDSC cho rằng, một trong những nguyên nhân chính là yêu cầu về vốn đã tạo cơ hội gia tăng thị phần cho các ngân hàng có nguồn lực tốt và gây áp lực lên các ngân hàng còn lại. Trong giai đoạn 2016 – 2020, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân của nhóm ngân hàng quốc doanh dao động từ 11,7% - 16,2%.
Trong đó, Vietcombank là ngân hàng duy nhất đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn trung bình toàn ngành (16,2% so với 14,6%). Đây cũng là nhà băng duy nhất trong nhóm ngân hàng quốc doanh có tăng trưởng về thị phần tín dụng với mức tăng 0,46% trong 5 năm qua.
Còn Vietinbank do bị hạn chế bởi nền tảng vốn mỏng, tỷ lệ đòn bẩy cao, hiệu quả thấp và không đủ dư địa để pha loãng tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, nên mức tăng trưởng tín dụng hàng năm của ngân hàng trong giai đoạn 2018 – 2020 chỉ đạt một con số. Trong 5 năm qua, thị phần tín dụng của VietinBank đã giảm 1,51%.
Agribank cũng bị mất thị phần tín dụng. Tỷ lệ CAR của ngân hàng, theo chuẩn Basel II, chỉ ở mức 6% trong năm 2020 và thị phần giảm 0,8% so với mức đỉnh năm 2018.
Tương tự, BIDV cũng đã chứng kiến mức tăng trưởng tín dụng chậm lại trong những năm gần đây do tác động tích cực từ các đợt phát hành trái phiếu riêng lẻ giảm dần.
Nhìn chung, các ngân hàng quốc doanh đã mất 1,42% thị phần tín dụng trong 5 năm qua. Mặc dù có mức tăng trưởng tín dụng thấp, song các ngân hàng này vẫn giảm đáng kể số dư trái phiếu doanh nghiệp trong 3 năm qua (khoảng 73.000 tỉ đồng).
Đối với các ngân hàng tư nhân nắm giữ trên 2% thị phần tín dụng, nhóm này đã tăng 3,5% thị phần tín dụng kể từ cuối năm 2015.
Trong đó, MBBank đứng đầu với mức tăng 0,9%. Mức tăng của Techcombank và VPBank lần lượt là 0,86% và 0,78%, trong khi ACB chỉ cải thiện thị phần thêm 0,39%. Bốn ngân hàng này cũng vượt trội hơn các ngân hàng khác trong nhóm về giá trị vốn hóa thị trường.
Techcombank, MBBank và VPBank là những ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tín dụng kép hàng năm trên 20%, với hệ số an toàn vốn thuộc hàng đầu.
Sacombank là ngân hàng duy nhất đánh mất thị phần tín dụng với mức giảm 0,02%. Tăng trưởng tín dụng bình quân 5 năm của Sacombank cũng ở mức thấp là 14,5% do quá trình xử lý tài sản xấu tồn đọng.
SHB tăng trưởng tín dụng bình quân 18,8% mỗi năm. Do khác biệt về khẩu vị rủi ro nên ACB chỉ đạt mức tăng trưởng trên mức trung bình ngành (17,4%) mặc dù có hệ số CAR và thanh khoản tốt.
Tăng trưởng tín dụng năm 2021 từ 11,4% - 14,7%?
VDSC cho rằng, nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào tín dụng. Do đó, để duy trì tốc độ tăng trưởng GDP từ 6 – 8% trong những năm tới như dự phóng, ước tính tăng trưởng tín dụng của ngành sẽ ở mức hai con số. VDSC dự báo tăng trưởng tín dụng năm 2021 sẽ dao động từ 11,4% - 14,7%, trung bình là 13,1%.
Các ngân hàng tư nhân lớn, bao gồm Techcombank, MBBank, VPBank, ACB dự kiến sẽ duy trì xu hướng tăng trưởng, đạt trên mức trung bình của ngành. Trong đó, ACB sẽ duy trì hoạt động cho vay cốt lõi vốn là điểm mạnh, trong khi trái phiếu doanh nghiệp vẫn sẽ đóng góp lớn vào tăng trưởng tín dụng của Techcombank.
Nhóm ngân hàng quốc doanh (ngoại trừ Vietcombank) được dự báo sẽ vẫn bị áp lực về yêu cầu vốn.
Với ROE cao, chi phí huy động thấp và dư địa để pha loãng tỷ lệ sở hữu của Nhà nước, VDSC cho rằng Vietcombank có nhiều lựa chọn để duy trì hoặc cải thiện hệ số CAR và duy trì mức chênh lệch dương với tăng trưởng tín dụng của ngành. Việc phát hành riêng lẻ đang trong quá trình sẽ giúp củng cố bộ đệm vốn của Vietcombank.
Về VietinBank, dự báo sự cải thiện về chất lượng tài sản sẽ dẫn đến cải thiện NIM và ROE. Điều này sẽ giảm áp lực lên CAR. Tuy nhiên, việc phát hành cổ phần là quan trọng để có thể đạt tăng trưởng tín dụng hai con số trong những năm tới.
Nhìn chung, việc tăng vốn và nâng cao hiệu quả là cần thiết đối với các ngân hàng quốc doanh. Mặc dù vậy, VDSC cho rằng thị phần tín dụng của các ngân hàng này trong ngắn hạn sẽ duy trì xu hướng giảm do thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng trưởng cao./.