Lời Tòa soạn: Công nghệ giáo dục của Giáo sư Hồ Ngọc Đại luôn thu hút sự chú ý của của các nhà giáo dục nói riêng và giới khoa học, công chúng nói chung. Nó cũng luôn gây ra không ít tranh cãi, mặc dù công nghệ giáo dục đã được triển khai từ hơn 40 năm qua.
Để rộng đường dư luận VietTimes xin trân trọng giới thiệu loạt bài viết của GS Hồ Ngọc Đại tới bạn đọc.
- Bài 1: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
- Bài 2:"Anh nên dùng “Quy trình kỹ thuật” của anh để xử lý môn Tiếng Việt cho trẻ em Việt Nam"
- Bài 3: Thực nghiệm là cái van an toàn lắp vào quá trình giáo dục thực thi công nghệ giáo dục
- Bài 4: “Tôi nghiên cứu lý thuyết và thiết kế Công nghệ giáo dục theo định hướng triết học“
- Bài 5: Phải thay đổi tận nguyên lý lý thuyết và thực tiễn hành nghề của nền giáo dục hàng nghìn năm qua
- Bài 6: Tiếng nói là "vật thật", chữ viết là "vật thay thế"
- Bài 7: "Tôi dạy trẻ em tôn trọng tiếng Việt, yêu tiếng Việt"
- Bài 8: Suốt mấy ngàn năm vẫn duy nhất một “Nghiệp vụ sư phạm”
- Bài 9: “Phải đặt Tiếng trong một chân không về Nghĩa“
- Bài 10: “Thày thiết kế - trò thi công“ thay cho "Thầy giảng giải – Trò ghi nhớ"
- Bài 11: Cuộc làm việc với Chủ tịch Quốc hội và chuyện bỏ các kỳ thi phổ thông
- Bài 12: Điểm xuất phát của Hành trình tư duy
- Bài 13: Chiếc gậy khều
- Bài 14: Làm ra công cụ để dùng
- Bài 15: Lần đầu biết đến tính khoa học tâm lý học của nghề dạy học
- Bài 16: Cuộc gặp với ông Võ Văn Kiệt
- Bài 18: "Làm ra khái niệm khoa học"
- Bài 19: Môn Tiếng Việt công nghệ giáo dục có giá trị triết học định hướng cho bước chuyển về nguyên lý của thời hiện đại
- Bài 20: Tôi coi việc học của Trẻ em có tư cách triết học như lao động của người lớn đương thời
- Bài 21: Trẻ em sinh ra là Người và trở thành chính mình, một cá nhân duy nhất trên hành tinh
- Bài 22: Cái bắt đầu trong lịch sử cũng là cái mở đầu trong logic
- Bài 23: Nghiệp vụ sư phạm
- Bài 24: Từ trừu tượng đến cụ thể hơn, từ đơn giản đến phức tạp hơn
- Bài 25: Đối tượng của Môn Tiếng Việt là tiếng Việt đang sống tự nhiên trong dân cư Việt
- Bài 26: Môn học được triển khai tuyến tính dọc theo một chiều thời gian.
Giáo sư Hồ Ngọc Đại |
Kỳ này: Tiếng là Đối tượng cần chiếm lĩnh của Môn Tiếng Việt lớp Một CGD.
Đối tượng lĩnh hội là Tiếng, triển khai dọc theo tiến trình phát triển tự nhiên từ trừu tượng đến cụ thể hơn, từ đơn giản đến phức tạp hơn.
Xin lưu ý: Tiếng của CGD là một khái niệm ngữ âm. Tiếng của Nguyễn Tài Cẩn là một khái niệm ngữ pháp.
Ngày nay, Thầy chọn Đối tượng môn học cho Trò quan trọng như ngày xưa cha mẹ chọn vợ cho con, hạnh phúc / đau khổ trọn một đời người.
Ngày nay, tôi chọn Đối tượng môn Tiếng Việt cho thế hệ trẻ hiện đại, thế hệ chưa hề có, nhân vật lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử nhân loại.
Tiếng là một thực thể âm thanh, có thực, nghe được, đang tồn tại thực trong đời sống thực, khắp hang cùng ngõ hẻm của đất nước.
Tiếng tiếng Việt cho Môn học là một thực thể có thực, trống rỗng, quen gọi là vỏ ngữ âm. Cái vỏ (Tiếng) là một hình thức, chỉ có thể nhận ra bằng giác quan lý thuyết: Tai nghe.
Nghe tức là tiếp nhận hình thức, không mảy may động chạm đến những gì “chứa” bên trong (nghĩa): Nhìn thì chỉ thấy (nhận ra) hình thức, cái bề ngoài, không thể nhìn thấy cái ruột bên trong (nghĩa).
Hình thức là những gì trẻ em tiếp nhận bằng hai giác quan lý thuyết: Tai (nghe), mắt (nhìn).
Con đường phát triển của đời em luôn luôn ở phía trước. Em luôn luôn đi tới, đi tiếp, không đứng lại, không quay lại. Ở một thời điểm, trên quãng đường đang đi do CGD thiết kế, em nghe một Tiếng. Em chỉ cần nhắc lại Tiếng đó (thuần âm thanh). Em dùng Tiếng đó làm Vật liệu để phân tích ngữ âm.
• Em nghe Tiếng.
• Em nhắc lại Tiếng.
• Em phân tích Tiếng.
CGD dùng một Tiếng mẫu: /ba/.
• Em nghe: /ba/
• Em nhắc lại: /ba/
• Em phân tích ra hai phần (theo Mẫu sen / chen):
• Em nhận ra từng âm, theo cách phát âm:
/a/ - luồng hơi đi ra tự do (không bị cản).
/b/ - luồng hơi đi ra bị cản (âm /b/ bị môi cản).
Lời nói gió bay.
Em học cách “giữ lại” bằng:
- quy ước của riêng em;
- quy ước của cộng đồng.
Em nên theo quy ước của cộng đồng, vừa tiện cho em, vừa tiện cho mọi người:
Dùng Chữ ghi Âm.
Nhận ra Âm bằng tai.
Nhận ra Chữ bằng mắt.
Nói ra, âm (Tiếng) nghe được, tan ngay.
Viết ra, chữ nhìn thấy, còn lại lâu dài.
CGD dùng một Mẫu: Tiếng /ba/.
a. Phân tích cấu trúc ngữ âm của Tiếng /ba/.
- Âm đầu: /b/.
- Vần: /a/.
Dùng phát âm phân loại âm:
/b/ - luồng hơi đi ra bị cản: Phụ âm.
/a/ - luồng hơi đi ra tự do: Nguyên âm.
b. Dùng /ba/ làm Mẫu (làm bằng âm thanh, chưa học chữ):
- Thay âm đầu: ba ca cha da đa.
- Thay vần: bo co cho do đo.
- Thay thanh: bà bá bả bã bạ.