|
PGS.TS Đào Xuân Cơ - Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai (Ảnh BVCC) |
Ung thư vú ở Việt Nam đang trẻ hoá
PGS.TS Đào Xuân Cơ - Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai – cho biết, theo các chuyên gia, trước đây ung thư vú thường gặp ở phụ nữ ngoài 40-50 tuổi, nhưng hiện nay đã ghi nhận nhiều trường hợp mắc bệnh ở lứa tuổi dưới 30. Thậm chí, các bác sĩ đã tiếp nhận bệnh nhân trẻ nhất mới 18 tuổi. Điều đáng nói là ở người trẻ bệnh thường phát hiện muộn do chủ quan, khiến việc điều trị khó khăn, hiệu quả kém.
Không những vậy, ung thư vú là bệnh có tỉ lệ mắc cao, đứng hàng đầu trong các bệnh ung thư ở nữ. Ở Việt Nam, mỗi năm có khoảng 21.555 ca ung thư vú mới mắc, khoảng 9.000 ca tử vong. Tổng số bệnh nhân mắc trong 5 năm qua khoảng 60.753 ca.
“Chính vì vậy, việc tầm soát phát hiện bệnh sớm có ý nghĩa quan trọng, khi tỉ lệ chữa khỏi lên tới 90%. Do đó, các chị em đừng trì hoãn, hãy tự chăm sóc bản thân và chủ động tầm soát định kỳ phát hiện ung thư vú”- PGS.TS Đào Xuân Cơ cho hay.
Giải pháp cho bệnh nhân ung thư vú
Theo các chuyên gia của Bệnh viện Bạch Mai, điều trị ung thư vú là điều trị đa mô thức, bệnh nhân không chỉ là điều trị ung thư để duy trì sự sống mà còn phải tạo hình để tăng chất lượng sống. Hiện nay đã có những bước tiến lớn về phương pháp điều trị như phẫu thuật, xạ trị, hóa trị và kết hợp với các phương pháp điều trị khác như liệu pháp nội tiết tố, liệu pháp nhắm trúng đích, liệu pháp miễn dịch và thực tế đã cải thiện đáng kể chất lượng điều trị ung thư vú.
Trong những năm gần đây Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong công tác sàng lọc phát hiện sớm và điều trị ung thư vú. Các cơ sở y tế đã triển khai nhiều chương trình sàng lọc giúp phát hiện sớm ung thư vú giúp nhiều bệnh nhân có cơ hội chữa khỏi bệnh hoặc ổn định bệnh lâu dài.
“Tuy nhiên, giải pháp hiệu quả nhất vẫn là tầm soát và phòng ngừa. Việc tầm soát phát hiện bệnh sớm có ý nghĩa quan trọng, tỉ lệ chữa khỏi lên tới 90%. Vì vậy, các chị em đừng trì hoãn, hãy tự chăm sóc bản thân và chủ động tầm soát định kỳ phát hiện ung thư vú” - PGS.TS Đào Xuân Cơ.
Cũng theo các chuyên gia, việc phẫu thuật bảo tồn bao gồm cắt một phần tuyến vú và xạ trị cho thấy kết quả điều trị không thay đổi so với cắt vú tận gốc; ít di chứng, thẩm mỹ cao, cải thiện chất lượng cuộc sống và tâm lý bệnh nhân sau điều trị.
Phẫu thuật cắt vú tiết kiệm da sẽ lấy đi toàn bộ tuyến vú, núm - quầng vú, sẹo sinh thiết (nếu có), chừa lại tối đa da vú, tái tạo vú tức thì là lựa chọn lâm sàng phổ biến hiện nay. Kỹ thuật này vẫn đảm bảo an toàn về mặt ung thư và thẩm mỹ.
Đồng thời, để đảm bảo tối đa hiệu quả điều trị, các bác sĩ sẽ đánh giá tình trạng di căn hạch với người bệnh ung thư vú. Trong đó, hạch lính gác là chặng hạch đầu tiên bị di căn. Nếu hạch lính gác không bị di căn thì phẫu thuật vú sẽ không cần nạo hạch nách, giúp tránh các di chứng phù nề, hạn chế cử động tay sau phẫu thuật.
Tái tạo bầu ngực sau phẫu thuật
Với sự phát triển của y học hiện đại, việc phẫu thuật tạo hình lại vú đã mang đến cho người bệnh ung thư bớt gánh nặng mặc cảm, giúp họ tự tin trong giao tiếp, làm việc hơn. Tái tạo vú bằng chất liệu nhân tạo hoặc tái tạo vú bằng mô tự thân.
PGS.TS Phạm Thị Việt Dung - Trưởng Khoa Phẫu thuật tạo hình - thẩm mỹ Bệnh viện Bạch Mai - cho biết, với sự phát triển của y học hiện đại việc phẫu thuật tạo hình lại vú đã mang đến cho người bệnh ung thư bớt gánh nặng mặc cảm, tự tin trong giao tiếp, làm việc hơn. Hiện nay, nhiều bệnh nhân ung thư vú được can thiệp, tái tạo lại bầu ngực ngay sau khi phẫu thuật loại bỏ các tế bào ung thư.
"Với từng trường hợp cụ thể, bệnh nhân sau cắt vú ung thư có thể được tái tạo vú bằng chất liệu nhân tạo hoặc tái tạo vú bằng mô tự thân. Trong đó, phương pháp đặt túi độn ngực bằng silicone thường được sử dụng kết hợp với một túi giãn da để kéo dãn rộng mô da và cơ trước, có đủ da để bao phủ túi ngực. Chất liệu nhân tạo này có ưu điểm thời gian phẫu thuật và thời gian nằm viện ngắn. Tất cả diễn ra trong một cuộc phẫu thuật và đem lại sự tự tin trong cuộc sống cho bệnh nhân"- PGS.TS Phạm Thị Việt Dung thông tin.