“Sự kiện đảo Trân Bảo (Damanski)” năm 1969 và cuộc khủng hoảng Trung – Xô:

Phần 1: Bên bờ vực của cuộc chiến tranh tổng lực

VietTimes -- Cách đây tròn nửa thế kỷ, giữa hai quốc gia láng giềng cùng chế độ Xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Trung Quốc đã xảy ra xung đột đẫm máu ở biên giới xung quanh việc tranh giành một bãi nổi  trên con sông nằm giữa biên giới hai nước khiến hai nước đứng bên bờ vực một cuộc chiến tranh tổng lực. Khi đó bộ máy tuyên truyền của cả hai bên đều đổ lỗi cho nhau phải chịu trách nhiệm về sự kiện này. Gần đây, các tư liệu của hai bên về cuộc xung đột này đã lần lượt được công bố, sự thật về vụ xung đột cũng như cuộc khủng hoảng nghiêm trọng mới dần được sáng tỏ…
Đảo Trân Bảo (hay Damanski) nơi xảy ra cuộc xung đột đẫm máu cách đây tròn nửa thế kỷ giữa quân đội hai nước Xô - Trung (phía trên, bên kia sông là lãnh thổ Liên Xô)
Đảo Trân Bảo (hay Damanski) nơi xảy ra cuộc xung đột đẫm máu cách đây tròn nửa thế kỷ giữa quân đội hai nước Xô - Trung (phía trên, bên kia sông là lãnh thổ Liên Xô)

Tháng 3/1969, tại hòn đảo nhỏ Trung Quốc gọi là Trân Bảo, Liên Xô gọi là Damanski trên con sông biên giới Ô Tô Lý (Ussuri) phân chia biên giới hai nước đã xảy ra một vụ xung đột đẫm máu do tranh giành quyền sở hữu hòn đảo khiến hơn 200 người bị chết.

Sau đó hai quốc gia Xã hội chủ nghĩa láng giềng này đã tiến đến bên bờ vực của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Hai bên đều bố trí một lực lượng quân đội đông đảo sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh tổng lực. Tình hình chỉ dịu đi khi lãnh đạo hai bên gặp nhau bên lề lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh và đi đến thống nhất giải quyết trên tinh thần đoàn kết Xã hội chủ nghĩa. Cho đến cuối thập niên 1980, nhà lãnh đạo Liên Xô Gorbachev thừa nhận đảo này thuộc về Trung Quốc. Đến năm 1991 Liên bang Nga chính thức ký văn bản công nhận Trân Bảo là của Trung Quốc…

Một cuộc đấu khẩu trên đảo giữa lính biên phòng hai nước
Một cuộc đấu khẩu trên đảo giữa lính biên phòng hai nước

Hai bên tố cáo lẫn nhau

Theo “Điều ước Trung - Nga” ký tại Bắc Kinh năm 1860 giữa Nga hoàng và nhà Thanh, biên giới hai nước đoạn phía Đông lấy sông Ussuri (hay Ô Tô Lý theo người Trung Quốc gọi) làm ranh giới. Vấn đề quy thuộc đảo Trân Bảo nằm trên dòng sông trong gần suốt thế kỷ 20 chưa được xác định. Cả Trung Quốc và Liên Xô đều tuyên bố có chủ quyền đối với hòn đảo có diện tích 0,74 km2, phần lớn nằm ở phía Tây (tức phía Trung Quốc) này. Phía Trung Quốc cho rằng, theo Điều ước thì đường biên giới nằm ở giữa dòng, đảo này lại nằm chủ yếu ở phía Tây nên phải thuộc về Trung Quốc.

Sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, từ năm 1947, quân đội Liên Xô bắt đầu tiến hành lên đảo này tuần tra, phía Trung Quốc không lên tiếng phản đối. Sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập (1/10/1949), thời kỳ đầu quan hệ hai bên gắn bó thân thiết nên vấn đề biên giới được gác lại. Cho đến cuối thập niên 1950, quan hệ Trung - Xô dần xấu đi bằng những cuộc tranh cãi về ý thức hệ và bất đồng về phương châm, chính sách. Năm 1959, khi xảy ra xung đột biên giới Trung Quốc - Ấn Độ, Liên Xô đã ngả về phía Ấn Độ rồi rút chuyên gia, cắt viện trợ, chấm dứt mọi hạng mục hợp tác; quan hệ Trung - Xô trở nên xấu đi, vấn đề biên giới sau nhiều năm được gác lại, giờ được mang ra với những tranh cãi gay gắt. Đầu thập niên 1960, khi hai bên tiến hành đàm phán về biên giới, Liên Xô có ý định trao trả Trân Bảo cho phía Trung Quốc, nhưng cuộc đàm phán đã gián đoạn nửa chừng do quan hệ hai nước ngày càng xấu đi.

Lính hai bên dùng gậy gộc choảng nhau
Lính hai bên dùng gậy gộc choảng nhau

Từ năm 1964, trên biên giới hai nước lẻ tẻ xảy ra các vụ xung đột bạo lực giữa lực lượng tuần tra của hai bên, nhất là trên các đảo Trân Bảo và Thất Lý Tẩm trên sông Ussuri. Ban đầu là đấu khẩu, sau đến xô đẩy, rồi sử dụng gậy gộc, dao kiếm.  Hai bên tố cáo lẫn nhau là thủ phạm gây ra tình hình căng thẳng trên biên giới hai nước.

Phía Trung Quốc tố cáo: tính từ tháng 10/1964 đến tháng 3/1969, Liên Xô đã gây ra 4.189 vụ việc trên biên giới. Nghiêm trọng nhất là vụ ngày 5/1/1968, lực lượng biên phòng Liên Xô đã sử dụng xe thiết giáp đổ bộ lên đảo Thất Lý Tẩm, sát hại 4 người dân Trung Quốc, phía Trung Quốc cực lực phản kháng.

Phía Liên Xô cũng tố cáo Trung Quốc chủ động gây ra các vụ việc khiêu khích trên biên giới. Từ cuối tháng 3/1965, số vụ lính Trung Quốc sang chiếm đất Liên Xô ngày càng nhiều; tính từ ngày 1/10/1964 đến 1/4/1965 đã xảy ra 36 vụ với 150 lính Trung Quốc vượt qua biên giới gây hấn; chỉ riêng nửa đầu tháng 4/1965, đã có thêm 12 vụ với hơn 500 binh lính và dân thường Trung Quốc tham gia. Đáng chú ý có vụ ngày 11/4/1965, 200 người Trung Quốc với 8 máy cày được quân lính yểm trợ đã sang cày cất trồng cây trên đất Liên Xô, khi gặp tổ tuần tra của lính biên phòng Liên Xô, họ đã có hành vi bạo lực và lăng nhục. Bước sang năm 1967, số vụ xâm nhập, khiêu khích đột nhiên tăng lên tới hơn 2.000, kèm theo đó là làn sóng tuyên truyền chống Liên Xô…Tháng 2/1967, khi nói về tương lai quan hệ Trung-Xô, Ngoại trưởng Trung Quốc Trần Nghị nói: “Quan hệ có thể tan vỡ, chiến tranh có thể nổ ra”. Tháng 3 cùng năm, Thủ tướng Chu Ân Lai công khai phát biểu: “Chiến tranh biên giới giữa Trung Quốc với Liên Xô có thể xảy ra sớm hơn chiến tranh với Mỹ”…

Lính Trung Quốc phục kích trên đảo
Lính Trung Quốc phục kích trên đảo

Trung Quốc là bên chủ động gây sự

Về nguyên do xảy ra vụ xung đột đẫm máu này, Trung Quốc luôn tuyên truyền hoàn toàn do phía Liên Xô gây ra, Trung Quốc bị buộc phải “phản kích tự vệ”. Tuyệt đại đa số người Trung Quốc và cộng đồng quốc tế đều chấp nhận sự giải thích đó bởi trước Liên Xô, Trung Quốc khi đó là phía yếu thế. Tuy nhiên, qua các văn kiện lần lượt được cả hai bên giải mật gần đây và hồi ký của những người đương thời, những nhân chứng trong cuộc thì sự thật lịch sử khác hẳn. Đó là: vụ xung đột, nói đúng ra là cuộc chiến tranh ở đảo Trân Bảo là do phía Trung Quốc chủ động hoạch định và tiến hành. Do tình hình trang bị vũ khí và huấn luyện của Trung Quốc khi đó có sự chênh lệch lớn đối với Liên Xô, nên Trung Quốc chỉ có thể tiến hành theo kiểu ra tay “xuất kỳ bất ý” (bất ngờ, nhân lúc đối phương không đề phòng, hay nói nôm na là đánh trộm), đột nhiên tập kích và tập trung ưu thế binh lực để tiến hành đánh đòn phủ đầu tiêu diệt đối phương.

Năm 1969, sau khi được ông Mao Trạch Đông phê chuẩn, Tư lệnh Quân khu Thẩm Dương đã lên kế hoạch “Chiến đấu phản kích đảo Trân Bảo” vào tháng 3/1969 để chào mừng Đại hội lần thứ 9 Đảng Cộng sản Trung Quốc họp vào tháng 4/1969. Trong kế hoạch tác chiến ghi rõ “quy mô cố gắng khống chế ở phạm vi nhất định, mặc dù đây là một cuộc xung đột biên giới cục bộ!”.

Theo trang web “Qulishi” của Trung Quốc ngày 14/1/2015, việc soạn thảo kế hoạch và trực tiếp chỉ huy trận đánh được giao cho Thiếu tướng Tiêu Toàn Phu (Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu Thẩm Dương). Ban đầu, vào ngày 25/1/1969, phía Trung Quốc định sử dụng lực lượng 3 đại đội để tiến công. Trước Tết âm lịch, Tiêu Toàn Phu mang kế hoạch về Bắc Kinh báo cáo. Ngày 29/2/1969, phương án tác chiến được báo cáo lên Bộ Tổng tham mưu (BTTM) và Bộ Ngoại giao, sau đó được ông Mao Trạch Đông phê chuẩn.

Binh sĩ Liên Xô trên đảo Trân Bảo trước khi xảy ra xung đột. Phía trước là bờ sông phía Trung Quốc
Binh sĩ Liên Xô trên đảo Trân Bảo trước khi xảy ra xung đột. Phía trước là bờ sông phía Trung Quốc

Ban đầu địa điểm tiến công (nhưng văn bản viết là “phản kích”) được lựa chọn không phải là đảo Trân Bảo, nhưng cuối cùng lại chọn nó là do xem xét từ nhiều mặt: thứ nhất, Liên Xô đã đồng ý trao đảo Trân Bảo cho Trung Quốc, Liên Xô chắc sẽ không liều chết lấy lại thứ mà họ đã xác định thuộc về Trung Quốc, theo luật quốc tế hay về lý, Liên Xô không thể mãi giữ đảo này được; thứ hai, từ năm 1947, Liên Xô đã cho quân tuần tra ở đảo Trân Bảo, ra tay ở đây sẽ gây tác động lớn ở Liên Xô; thứ ba, địa hình đảo Trân Bảo có lợi cho Trung Quốc, Trung Quốc dễ dàng ngụy trang tiếp cận, quân Liên Xô đến sẽ dễ bị phát hiện. Trước khi tiến công, phía Trung Quốc đã chuẩn bị kỹ lưỡng, nắm chắc quân số, những địa điểm và thời gian lính biên phòng Liên Xô tuần tra, thậm chí ám hiệu, mật khẩu cũng đã chuẩn bị hoàn tất.

(Còn nữa)