Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925 - 21/6/2025), Tạp chí VietTimes trân trọng giới thiệu những tấm gương tiêu biểu của nền báo chí nước nhà thời đại Hồ Chí Minh.
"Không có ngòi bút trung thực, sẽ không có lòng tin bền vững"
Đối với nhà báo lão thành Hà Đăng, báo chí không phải là công cụ để tìm kiếm danh tiếng, mà là sứ mệnh phụng sự lý tưởng cách mạng và phục vụ nhân dân bằng ngòi bút.
Sinh năm 1929 tại Phú Yên, nhà báo Hà Đăng bắt đầu sự nghiệp báo chí từ năm 1947. Bút danh “Hà Đăng” gắn liền với hành trình gần 80 năm cầm bút giữa các chiến khu kháng chiến. cho đến đỉnh cao nghề nghiệp trong hòa bình.
Ông từng đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng: Tổng Biên tập Báo Nhân Dân (1986–1991); Trưởng Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương; Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; Trợ lý Tổng Bí thư. Đặc biệt, ông là thành viên đoàn đàm phán Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (1968–1973).

Ở tuổi 96, giọng nói của ông vẫn rành rọt, ánh mắt sáng, ký ức như một kho tư liệu sống về báo chí và cách mạng. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền báo chí cách mạng, nhà báo thời đại Hồ Chí Minh.
Bén duyên từ bài "Tâm sự đồng bạc trong két sắt" năm 1947 đăng trên Báo Phấn Đấu (tiền thân của Báo Phú Yên). Đó là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa bước vào giai đoạn đầu, đất nước bộn bề gian khó, cần sự ủng hộ của toàn dân. Bài báo của ông kêu gọi những người giàu ủng hộ tiền bạc cho quỹ kháng chiến. Bằng cách diễn đạt độc đáo, giản dị mà đầy cảm xúc, "Tâm sự đồng bạc trong két sắt" nhanh chóng tạo hiệu ứng, khiến nhiều phú ông trong vùng mang tiền đến ủng hộ kháng chiến.
“Lúc đó tôi chỉ nghĩ đơn giản, viết một sự thật, một tiếng nói của lương tâm. Nhưng khi thấy bài viết làm thay đổi người đọc, tôi hiểu ngòi bút có thể lay động xã hội. Đó là sức mạnh thật sự của báo chí”, ông chia sẻ với VietTimes.

Từ đó, ông nhận ra báo chí không chỉ là nghề viết, mà còn là nghề góp phần làm nên lịch sử. Đặc biệt trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lược, báo chí cách mạng không chỉ dừng lại ở việc đưa tin mà còn truyền cảm hứng, khơi dậy tinh thần yêu nước, đấu tranh và đoàn kết.
Quan điểm ấy, theo ông, vẫn vẹn nguyên cho đến tận bây giờ: "Báo chí là công cụ sắc bén của tư tưởng, là một kênh quan trọng để định hướng dư luận, cổ vũ cái đúng, phê phán cái sai, và từ đó nâng tầm dân trí, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, với cách mạng.
Nhà báo Hà Đăng chia sẻ, ông may mắn được tham dự nhiều sự kiện lớn của đất nước, trong đó có Hội nghị nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (1968-1973). Đây không chỉ là cuộc đấu trí trên bàn đàm phán mà còn là một chiến trường truyền thông quốc tế. Ông nhận ra bài học sâu sắc nhất về ngoại giao báo chí: "Không thể chỉ nói cho mình nghe, mà phải nói để người khác hiểu, thậm chí đồng thuận."
"Báo chí phương Tây khi ấy thường nhìn Việt Nam qua lăng kính méo mó, lệch lạc. Đối thoại không chỉ diễn ra ở bàn đàm phán, mà còn ở chính các dòng chữ trên báo chí. Chúng tôi phải kiên trì giải thích, đối thoại, dùng sự thật và lý lẽ để thuyết phục”, ông kể lại.

Chính phương pháp này đã tạo ra sự đồng tình ngày càng lớn của dư luận tiến bộ trên thế giới với chính nghĩa của Việt Nam, biến những dòng chữ trên báo chí thành một phần quan trọng của cuộc đấu tranh ngoại giao.
Giai đoạn làm Tổng Biên tập Báo Nhân Dân (1986-1991) là một "thời kỳ đặc biệt" đối với nhà báo Hà Đăng. Tình hình trong nước và quốc tế cực kỳ phức tạp. Liên Xô tan rã, mô hình xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, khiến nhiều người hoang mang. Trong khi đó, Việt Nam bắt đầu công cuộc Đổi mới – vừa phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa linh hoạt về kinh tế, chính trị.
Trong bối cảnh phức tạp ấy, báo chí, đặc biệt là Báo Nhân Dân, phải gánh vác nhiệm vụ "giữ lửa": giữ vững niềm tin, định hướng tư tưởng, và phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của nhân dân.
"Chúng tôi không tô hồng, nhưng cũng không được để xã hội sa vào hoài nghi, bi quan. Phải thật sự trung thực, trí tuệ và bản lĩnh," ông khẳng định. Đó là lúc báo chí không chỉ đơn thuần đưa tin mà còn trở thành một chủ thể tư tưởng của Đảng và nhân dân.

Từ những trải nghiệm quý báu của mình, ông đúc kết 5 "nguyên tắc vàng" cho báo chí: Kiên định lập trường tư tưởng; Trung thực với sự thật; Gắn bó với nhân dân; Linh hoạt trong phương pháp thể hiện; Cuối cùng bản lĩnh trước khủng hoảng.
Đặc biệt ông nhấn mạnh 'không có ngòi bút trung thực, sẽ không có lòng tin bền vững' và 'đức' phải luôn đi trước 'tài' đối với người làm báo. Theo ông, đó chính là cốt lõi làm nên sức mạnh của báo chí cách mạng Việt Nam suốt gần một thế kỷ qua, cũng là điều mà thế hệ người làm báo trẻ hôm nay cần gìn giữ, phát huy để tiếp tục ngọn lửa nghề.
Nhà báo từng gặp gỡ, tiếp xúc với nhiều lãnh đạo Đảng
Nhắc tới nhà báo Phan Quang là nhớ đến thế hệ vàng của báo chí cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, cùng những nhà báo nổi tiếng một thời: Hoàng Tùng, Thép Mới, Hữu Thọ, Hà Đăng. Ông tên khai sinh là Phan Quang Diêu, sinh năm 1928, tại Quảng Trị. Với hàng chục năm cống hiến, ông là một nhà báo, nhà văn, dịch giả tài năng. Ông từng gắn bó 28 năm với Báo Nhân Dân và giữ nhiều trọng trách như Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam.
Sự nghiệp báo chí của Nhà báo Phan Quang bắt đầu từ rất sớm, ông viết báo từ năm 20 tuổi (năm 1948). Nhà báo Phan Quang luôn tâm niệm lời Bác Hồ dạy: "Viết có hay người ta mới đọc". Ban đầu, ông làm phóng viên, viết Báo Cứu Quốc ở Liên khu IV, dọc theo dãy Trường Sơn từ Thừa Thiên - Huế trở ra. Tháng 10/1954, ông được điều về Hà Nội làm phóng viên Báo Nhân Dân. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông sống nhiều ở tuyến lửa Khu IV, chuyên tâm nghiên cứu nhiều vấn đề về nông nghiệp – nông thôn và nông dân, là một nhà báo rất có uy tín trong lĩnh vực này.

Gia tài đồ sộ của nhà báo Phan Quang là hàng ngàn bài báo và hơn 50 tác phẩm văn học đã xuất bản. Nhà báo Phan Quang còn là một dịch giả. Tác phẩm "Nghìn lẻ một đêm" dịch từ tiếng Pháp được xuất bản hơn 40 lần, gắn bó với nhiều thế hệ. Ông may mắn luôn có mặt ở những điểm nóng, những sự kiện quan trọng của lịch sử nước nhà. Ông từng gặp gỡ, tiếp xúc với nhiều lãnh đạo của Đảng, Nhà nước như: Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Linh... Nhà báo Phan Quang cũng đã lăn lộn ở nhiều chiến trường, theo sát các đoàn quân chiến đấu để ghi, chép, viết, phản ánh chân thực cuộc kháng chiến của dân tộc.
Các tác phẩm của ông không chỉ mang giá trị văn học mà còn có tính thời sự, phản ánh sâu sắc đời sống xã hội. Ông được ví là một ký giả uyên bác, lịch lãm, tinh tế và nghiêm cẩn, luôn thủy chung với nghề, tận tụy phụng sự Tổ quốc và nhân dân.
Ngòi bút xông pha tuyến lửa "độc nhất vô nhị"
Nhà báo Nguyễn Khắc Tiếp, sinh năm 1923, quê ở Hưng Yên. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, ông gia nhập bộ đội Khu 10 (Khu Tây Bắc). Bằng học vấn và năng khiếu, ông viết tin bài về các sự kiện và nhanh chóng trở thành một trong những phóng viên đầu tiên của Thông tấn xã Việt Nam.
Đặc biệt, vào cuối năm 1949, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị sáp nhập hai tờ báo Vệ quốc quân và Quân du kích thành Báo Quân đội Nhân dân, Nhà báo Nguyễn Khắc Tiếp vinh dự được chọn bổ sung vào lực lượng nòng cốt của tờ báo quân đội này.
Ngày 20/10/1950, báo Quân đội Nhân dân ra số đầu tiên, nhà báo Nguyễn Khắc Tiếp thuộc lớp những phóng viên đầu tiên của báo Quân đội nhân dân.
Chỉ với "ngòi bút và cuốn sổ", Nhà báo Nguyễn Khắc Tiếp đã không quản ngại hiểm nguy, xông pha khắp các chiến trường ác liệt. Từ vùng biên giới trùng điệp, chiến khu trung du, những làng quê đồng bằng cho đến chiến trường Điện Biên Phủ lịch sử, ông luôn có mặt để ghi lại những hình ảnh chân thực, sống động về cuộc sống chiến đấu anh dũng và ý chí quật cường của bộ đội và nhân dân ta. Những bài báo của ông không chỉ cung cấp thông tin mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn, góp phần hun đúc ý chí chiến thắng trong toàn quân, toàn dân.
Nhà báo, nhà văn Hồ Quang Lợi, nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam cho biết nhà báo Nguyễn Khắc Tiếp là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ vàng báo chí cách mạng Việt Nam, những người không cần giữ chức vụ cao, nhưng có đóng góp to lớn với nghề.

Theo ông Lợi, kỷ niệm đặc biệt nhất trong đời cầm bút của nhà báo Nguyễn Khắc Tiếp là được cử đi viết bài về cuộc gặp của Bác Hồ với bộ đội Đại đoàn 308 tại đền Hùng vào ngày 19/9/1954.
Ngay sau cuộc gặp đặc biệt đó, nhà báo Nguyễn Khắc Tiếp đã viết xong bài báo “Chúng cháu nguyện xứng đáng là cháu Bác” đăng nổi bật trên báo Quân đội Nhân dân. Trong bài báo đó, có câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại đền Hùng: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Được trực tiếp chứng kiến cuộc gặp và ghi lại lời nói sâu sắc của Bác Hồ về sự kết nối thiêng liêng trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước muôn đời của dân tộc ta, đó vừa là vinh dự đặc biệt vừa là may mắn “độc nhất vô nhị” trong đời cầm bút của nhà báo Nguyễn Khắc Tiếp.
Trong các sự kiện lịch sử đặc biệt của đất nước, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946 sau khi nước nhà độc lập và cuộc Tổng tuyển cử thứ hai năm 1976 sau khi đất nước thống nhất, là những kỷ niệm không thể nào quên đối với nhà báo Nguyễn Khắc Tiếp.
Ông là hiện thân của nhà báo chiến sĩ trong thời đại Hồ Chí Minh viết bằng trải nghiệm, sống cùng thực tiễn, và chiến đấu bằng ngòi bút trên mặt trận tư tưởng. Tên tuổi và những trang viết của Nguyễn Khắc Tiếp mãi là biểu tượng tiêu biểu của nền báo chí cách mạng Việt Nam.
Những nhà báo như Hà Đăng, Phan Quang, Nguyễn Khắc Tiếp là những biểu tượng sáng ngời của báo chí cách mạng Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của họ không chỉ là kho tư liệu quý giá mà còn là nguồn cảm hứng bất tận, nhắc nhở các thế hệ làm báo hôm nay về sứ mệnh cao cả: phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân bằng ngòi bút trung thực, bản lĩnh và tràn đầy nhiệt huyết.
Trong thời đại mới, khi công nghệ và tốc độ thay đổi từng ngày, những giá trị cốt lõi mà các bậc tiền bối để lại, đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh chính trị, ngòi bút vì dân, vẫn là kim chỉ nam cho mỗi người làm báo hôm nay và mai sau.

Những hiện vật quý tại Di tích Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng

VietTimes và Chi hội Nhà báo Truyền thông số Việt Nam thăm Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng
