Đó là nhận định của ông Trương Thanh Phước – Phó Chủ tịch Uỷ ban Giám sát Tài chính quốc gia trước một loạt những rào cản xử lý nợ xấu đang dần được “gỡ bỏ”.
Nghị định 34 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 53 về hoạt động của Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC) vừa được Chính phủ ban hành với nhiều điểm mới. Kỳ vọng xử lý nợ xấu sẽ được đẩy nhanh tiến độ có đạt được, thưa ông?
Nghị định 34 đặt ra nhiều vấn đề mới. Thứ nhất, nếu trước đây Nghị định 53 yêu cầu các tổ chức tín dụng (TCTD) phát hành trái phiếu đặc biệt (TPĐB) để mua nợ xấu nhưng là theo giá trị sổ sách và TCTD phải trích lập dự phòng rủi ro (DPRR) cho những khoản nợ xấu 20%/năm. Tuy nhiên, với quy định mới tại Nghị định 34 thì TPĐB này có thể được phát hành trong 5 hoặc 10 năm, tuỳ thuộc vào phương án tái cơ cấu của từng TCTD mà Thống đốc NHNN quyết định cụ thể.
Xét về khuôn khổ pháp lý chung, quy định này giúp TCTD sau khi bán khoản nợ xấu thì chi phí trích lập DPRR không phải dồn dập, mà có thể giảm từ 20% dần về 10%. Đây là một tiến bộ sau khi đúc rút kinh nghiệm thực tiễn từ quá trình 2 năm qua bán nợ xấu cho VAMC.
Ông Trương Thanh Phước- Phó Chủ tịch Uỷ ban Giám sát Tài chính quốc gia: Nhà đầu tư ngoại tham gia mua nợ xấu, nhanh cũng phải từ từ. |
Thứ 2, các TCTD bán nợ xấu cho VAMC không bán theo giá trị sổ sách, mà là sẽ bán theo giá thị trường và VAMC trả cho TCTD bằng 1 loại trái phiếu. Theo Nghị định 34, VAMC sẽ phát hành trái phiếu để mua khoản nợ xấu theo giá thị trường, trái phiếu này có giá trị gần như tiền mặt và TCTD có thể đem tới NHNN lấy tiền mặt qua cửa sổ tái cấp vốn, thị trường mở (OMO).
Thứ 3, các TCTD không trích lập DPRR nữa. Ngoài ra, trước TPĐB không được thế chấp vay tiền tái cấp vốn… và phải trích lập dự phòng, còn với loại trái phiếu này được thế chấp vay tiền và không phải trích lập dự phòng.
Bên cạnh đó, VAMC được quyền mua những khoản nợ xấu thỏa mãn điều kiện DN có khả năng phục hồi trong tương lai, hoặc không phục hồi trong tương lai nhưng DN có thể phát mại tài sản. Quy định này sẽ tạo điều kiện cho VAMC có thể mua nợ xấu nhanh hơn.
Với 3 điểm mới cơ bản của Nghị định 34 thì tới đây xử lý nợ xấu có tiến triển nhanh hơn hay không thì khó dự báo. Song rõ ràng, đó là những điều kiện cần cho quá trình xử lý nợ xấu. Theo tôi, khung pháp lý như vậy là thuận lợi rồi, tất nhiên cũng cần sự tạo điều kiện, cởi mở hơn nữa từ phía các bộ, ngành liên quan.
Ông vừa đề cập tới những điều kiện cần để tốc độ xử lý nợ xấu nhanh hơn. Vậy còn điều kiện đủ là gì, thưa ông?
Điều kiện đủ là phải có những con người rất cụ thể tham gia vào quá trình này. Nhà đầu tư (NĐT) có cảm thấy mua nợ xấu tạo cho họ lợi nhuận hay không thì cần khuôn khổ pháp lý mới, chính sách mới. Ví dụ, Quốc hội thông qua các luật về kinh doanh bất động sản tạo điều kiện thuận lợi không chỉ cho NĐT trong nước mà cả nước ngoài, họ thấy bỏ tiền vào đây sẽ đem lại lãi. Lợi nhuận là mệnh lệnh tối thượng trong kinh tế thị trường.
Yếu tố thứ nữa là kinh tế vĩ mô ổn định. Những con số tăng trưởng GDP ấn tượng năm 2014 và quý I/2015 rõ ràng cho thấy kinh tế đang hồi phục và đang “mon men” tìm quỹ đạo để tăng tốc. Nền kinh tế tăng trưởng cao, ổn định thì tại sao không bỏ tiền vào đầu tư?
Yếu tố quan trọng nữa đó là sự ổn định tỷ giá. Giả sử tôi có 1 triệu đô la Mỹ, bán đi lấy 21 tỷ 600 triệu đồng và gửi tiết kiệm lấy lãi 6-7%/năm, sẽ là khôn ngoan hơn nhiều nếu gửi bằng đồng USD và chỉ nhận lãi 0,75%/năm. Đâu phải ngẫu nhiên Thống đốc tuyên bố năm nay điều chỉnh tỷ giá không quá 2%. Nói vậy để thấy kỳ vọng vào một thị trường khởi sắc hơn.
Ngoài ra, chúng ta cũng đang nghiên cứu kinh nghiệm xử lý nợ xấu của nước ngoài để thành lập thị trường mua bán nợ chuyên nghiệp.
Như ông nói thì thị trường nợ xấu có vẻ là “mảnh đất hứa”, nhưng hiện vẫn chưa có NĐT ngoại nào “ngó ngàng” tới?
Muốn nhanh thì phải rất từ từ. Các NĐT nước ngoài tuy chưa "cưới" nhưng họ cũng đang "tìm hiểu".
Nói là muốn nhưng họ cũng phải xem xét, nghiên cứu trên cơ sở xếp hạng tín nhiệm quốc gia của các hãng tín nhiệm hàng đầu quốc tế đưa ra. Thị trường hiệu quả là thị trường được truyền dẫn thông tin công khai, minh bạch. Họ cẩn trọng vì đó tiền tươi thóc thật của chính họ trong việc đầu tư vào thị trường Việt Nam, đặc biệt là thị trường mua bán nợ, rồi thị trường bất động sản. Các biến số vĩ mô là thông tin đầu vào cho NĐT.
Ông nói cần thời gian từ từ xử lý nợ xấu, vậy cụ thể là thời gian bao lâu?
Theo tôi 3 năm nữa sẽ dứt điểm nợ xấu. Uỷ ban Giám sát Tài chính quốc gia đã thống kê và nhận thấy, nợ xấu phát sinh tự nhiên. Cỏ (nợ xấu) vẫn mọc trên sân nền, nhưng tốc độ cắt cỏ (DPRR của TCTD) đang nhanh hơn cỏ mọc. Cụ thể, nợ xấu 2014 mới phát sinh 36.000 tỷ đồng, trong khi đó ngân hàng tự xử lý DPRR 41.000 tỷ đồng.
Thêm nữa, hiện chênh lệch % giữa lãi suất thu – chi (net margin) đã giảm xuống rất thấp, chỉ khoảng 2,7%. Margin đã quá thấp rồi và sẽ đi lên. Đồng nghĩa, kết quả kinh doanh của ngân hàng tốt hơn và các nhà băng lấy tiền đó trích lập DPRR, xử lý nợ xấu. Đó là lý do vì sao tôi dự báo nợ xấu 3 năm sau sẽ xử lý dứt điểm.
Có thể bảng cân đối tài sản của các TCTD có chỗ này, chỗ kia, nhưng về tổng thể tỷ lệ nợ xấu sẽ về mức dưới 3% trong năm nay.
Theo Infonet