"Vũ khí nhân lực" giúp Hàn Quốc dẫn đầu ngành bán dẫn toàn cầu và bài học cho Việt Nam

Hàn Quốc gia nhập ngành bán dẫn sau, nhưng nhờ biết dùng nhân lực làm vũ khí chiến lược để vượt lên dẫn đầu, trở thành mắt xích không thể thay thế trong chuỗi giá trị bán dẫn toàn cầu.

Hành trình phát triển ngành công nghiệp bán dẫn

Hành trình của ngành bán dẫn Hàn Quốc bắt đầu từ năm 1965, khi chính phủ nước này chủ động và thành công trong việc thu hút khoản đầu tư đầu tiên từ công ty Komy (Mỹ) – nhờ lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng, chính sách ưu đãi hấp dẫn. Chỉ vài năm sau, vào năm 1969, hai tên tuổi lớn trong ngành bán dẫn là Fairchild Semiconductor (Mỹ) và Toshiba (Nhật Bản) lần lượt hiện diện, đặt nền móng cho sự hình thành của ngành công nghiệp bán dẫn non trẻ nhưng đầy triển vọng tại Hàn Quốc.

Đến thập niên 1970, ba chaebol lớn của Hàn Quốc là Samsung, LG và Hyundai nhập cuộc với tham vọng dẫn dắt cuộc chơi. Tuy nhiên, vấp phải rào cản lớn là các công ty nước ngoài không sẵn sàng chuyển giao công nghệ lõi, cuộc chơi vẫn do các công ty nước ngoài kiểm soát, các công ty Hàn Quốc có những bước tiến đáng kể, dù chính phủ có nhiều chính sách ưu đãi.

Từ thập kỷ 1980, các tập đoàn lớn như LG, Huyndai, nhất là Samsung đẩy mạnh tiến bước vào ngành bán dẫn. Đến năm 1985, cả ba tập đoàn Samsung Electronics, LG, và Hyundai Electronics đều mở rộng sang thung lũng Silicon, với tổng vốn đầu tư tương đương với 3 tỷ USD.

Mục đích chính của các khoản đầu tư nước ngoài là để tiếp thu công nghệ tiên tiến, đưa kỹ sư sang đào tạo tại Mỹ, và điều phối kinh doanh dễ dàng hơn với các đối tác. Song đến năm 1985, các công ty nước ngoài tiếp tục thống trị hoạt động sản xuất và xuất khẩu chất bán dẫn tại Hàn Quốc. Khi đó Hàn Quốc chỉ chiếm vỏn vẹn 3% thị phần DRAM (Dynamic Random Access Memory - Bộ nhớ truy xuất ngẫu nhiên động) toàn cầu.

Năm 1985 đánh dấu một bước ngoặt với ngành bán dẫn Hàn Quốc, khi giá DRAM toàn cầu lao dốc do nhu cầu máy tính suy giảm, khiến nhiều tập đoàn Mỹ rút lui khỏi thị trường. Trong bối cảnh đầy biến động đó, Samsung tận dụng cơ hội để khẳng định vị thế dẫn đầu trong lĩnh vực chip nhớ – đặc biệt là DRAM – đặt nền móng cho vai trò thống trị sau này của Hàn Quốc trên bản đồ bán dẫn thế giới.

Trước thử thách khắc nghiệt đó, trong khi Hyundai hoãn kế hoạch sản xuất DRAM 256K đến cuối năm 1987 và LG lùi sang năm 1988, Samsung vẫn quyết lội ngược dòng, tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu các dòng chip nhớ tiên tiến hơn, đầu tư vào R&D với quy mô gấp đôi đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, đúng là “trong nguy có cơ”, cuộc khủng hoảng mở ra cánh cửa chiến lược cho Samsung tiếp cận các công nghệ lõi từ các công ty bán dẫn Mỹ – những công nghệ mà trước đó họ không sẵn sàng chuyển giao. Kết quả là Samsung trở thành công ty đầu tiên trên thế giới phát triển thành công công nghệ 256K DRAM vào năm 1984, và tiếp tục dẫn đầu với công nghệ 1M DRAM vào năm 1986.

Với nền tảng đó, kể từ những năm 1990, Samsung liên tục ghi dấu ấn với các đột phá công nghệ trong lĩnh vực chip nhớ, được ứng dụng rộng rãi trong thiết bị điện tử tiêu dùng toàn cầu. Năm 1992, nhờ đầu tư sớm vào công nghệ 64Mb DRAM, Samsung chính thức vượt lên trở thành nhà sản xuất DRAM số 1 thế giới – một bước ngoặt đưa Hàn Quốc thống trị mảng chip nhớ. Đến năm 2004, Samsung tiếp tục khẳng định vị thế dẫn đầu khi ra mắt chip nhớ NAND flash 8GB đầu tiên trên thế giới.

Đến năm 2011, Hàn Quốc chính thức vươn lên trở thành cường quốc chip nhớ hàng đầu thế giới, chiếm tới 66% thị phần DRAM toàn cầu. Hiện tại, quốc gia này vẫn duy trì vị thế thống trị với hơn 60% thị phần DRAM và trên 50% thị phần chip nhớ NAND, trở thành mắt xích then chốt trong chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu.

Năm 2024, xuất khẩu chất bán dẫn của Hàn Quốc đạt 141,9 tỷ USD, chiếm tới 21% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước – minh chứng cho vai trò trụ cột của ngành này đối với nền kinh tế quốc gia.

Đào tạo nhân lực bán dẫn theo mô hình ba tầng

Phía sau sự vượt lên dẫn đầu ngành bán dẫn toàn cầu ấy là một chiến lược nhân lực bài bản, được Nhà nước Hàn Quốc định hình từ rất sớm như một trụ cột chiến lược để duy trì ưu thế cạnh tranh.

Với sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, doanh nghiệp và trường đại học, Hàn Quốc triển khai mô hình đào tạo nhân lực ba tầng: từ kỹ thuật viên vận hành sản xuất, đến kỹ sư thiết kế – nghiên cứu công nghệ lõi, và nhà quản trị chiến lược điều phối toàn bộ chuỗi giá trị toàn cầu. Mỗi tầng đều được thiết kế chuyên biệt, gắn chặt với nhu cầu công nghiệp thực tế và liên tục cập nhật theo nhịp đổi mới công nghệ.

Mô hình đào tạo ba tầng này giúp Hàn Quốc không chỉ lấp đầy các vị trí trong chuỗi sản xuất, mà còn kiến tạo một hệ sinh thái nhân lực liền mạch – từ kỹ thuật viên sản xuất, kỹ sư thiết kế đến nhà quản trị chiến lược.

Mỗi tầng đều được chuẩn hóa năng lực, liên tục nâng cấp theo nhịp đổi mới công nghệ và nhu cầu thị trường. Chính sự phối hợp nhịp nhàng này đã giúp Hàn Quốc duy trì lợi thế cạnh tranh dài hạn trong ngành bán dẫn – một lĩnh vực mà độ trễ trong đào tạo nhân lực có thể tạo ra khoảng cách công nghệ hàng thập kỷ.

Tầng kỹ thuật viên sản xuất là lực lượng nền tảng vận hành toàn bộ chuỗi sản xuất bán dẫn được đào tạo tại các trường cao đẳng kỹ thuật, trung tâm dạy nghề – nơi chương trình học gắn chặt với thực tiễn công nghiệp, đặc biệt là các quy trình yêu cầu độ chính xác và kỷ luật cao như bán dẫn. Vai trò không chỉ dừng lại ở vận hành máy móc, mà còn bao gồm kiểm định chất lượng, xử lý sự cố kỹ thuật và bảo trì dây chuyền sản xuất. Đây là tầng nhân lực đảm bảo sự ổn định, chính xác và liên tục trong hoạt động của các nhà máy – những mắt xích không thể thiếu trong chuỗi cung ứng toàn cầu ngành bán dẫn.

Tầng kỹ sư thiết kế và R&D được đào tạo bài bản tại các đại học hàng đầu như KAIST, POSTECH, Seoul National University, họ không chỉ được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật như thiết kế vi mạch, quy trình sản xuất bán dẫn, mô phỏng hệ thống và tối ưu hóa kiến trúc chip mà còn đào tạo để hiểu về kinh tế, quản trị công nghệ và tư duy thị trường. Mục tiêu không chỉ là tạo ra người am hiểu công nghệ, mà là người có thể thiết kế sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường toàn cầu, tối ưu hóa quy trình và đồng thời nắm bắt các xu hướng công nghệ mới nổi như AI, chip logic hay công nghệ 3D. Chính nhờ cách tiếp cận liên ngành này mà Hàn Quốc sở hữu được thế hệ kỹ sư có tư duy hệ thống vừa giỏi chuyên môn, vừa nhạy bén với thị trường và khả năng thương mại hóa công nghệ.

Tầng nhân lực quản trị chiến lược gồm những cá nhân có khả năng kết nối giữa công nghệ – kinh doanh – quản trị chuỗi cung ứng toàn cầu. Họ không chỉ hiểu kỹ thuật, mà còn có tư duy hệ thống, khả năng ra quyết định chiến lược và điều phối toàn bộ vòng đời sản phẩm từ phòng nghiên cứu đến thị trường. Nhiều người trong số này được đào tạo liên ngành tại các trường đại học danh tiếng trong nước như KAIST, hoặc được gửi đi học tại Mỹ, Nhật, Đức – những quốc gia có hệ sinh thái công nghiệp bán dẫn phát triển bậc nhất – để tiếp thu tinh hoa quản trị toàn cầu và mang về chuẩn mực quốc tế, góp phần nâng cấp toàn bộ hệ sinh thái đổi mới của quốc gia.

Các tập đoàn công nghệ Hàn Quốc Samsung, SK Hynix không đứng ngoài cuộc mà chủ động cùng tham gia đào tạo, tham gia thiết kế chương trình học cùng trường đại học, gửi chuyên gia đến giảng dạy thực tiễn, tài trợ học bổng toàn phần, cam kết tuyển dụng sau khi tốt nghiệp, đặc biệt, họ còn xây dựng trung tâm R&D ngay trong khuôn viên đại học giúp sinh viên được học sát với thực tế công nghiệp, rút ngắn khoảng cách giữa nghiên cứu – sản xuất – thương mại hóa. Đây chính là nền tảng hình thành “kỹ sư thực chiến”, có khả năng hòa nhập ngay vào các dự án sản xuất chip phức tạp toàn cầu.

Hiện nay, Hàn Quốc đang dồn lực mở rộng sang các phân khúc giá trị cao như chip logic, foundry, chip AI và bán dẫn cho xe tự lái, với mục tiêu trở thành cường quốc bán dẫn toàn diện.

Trụ cột của tham vọng này là Chiến lược K-Semiconductor Belt trị giá 450 tỷ USD đến năm 2030, công bố từ năm 2021 – nhằm không chỉ giữ vững ngôi đầu DRAM, mà còn vươn tầm trong toàn bộ chuỗi giá trị bán dẫn toàn cầu.

Cốt lõi của Chiến lược K-Semiconductor Belt vẫn là con người. Hàn Quốc đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ đào tạo 150.000 nhân lực bán dẫn chất lượng cao – bao gồm kỹ thuật viên, kỹ sư R&D và nhà quản trị chiến lược. Hơn 1,5 tỷ USD được đầu tư vào các trung tâm đào tạo – nghiên cứu – thí điểm vi mạch gắn sát thực tiễn công nghiệp. Sinh viên được học miễn phí, cấp học bổng toàn phần, cam kết tuyển dụng ngay sau tốt nghiệp tại các tập đoàn lớn. Hơn 150 doanh nghiệp, trường đại học và viện nghiên cứu cùng tham gia liên kết tạo thành một “vành đai chất xám” vận hành đồng bộ.

Thu hút, kết nối nhân tài bán dẫn Hàn kiều toàn cầu

Hàn Quốc không chỉ tập trung xây dựng nội lực, mà còn chủ động mở rộng biên giới nhân lực ra toàn cầu thông qua chiến lược thu hút, kết nối mạng lưới nhân tài Hàn kiều toàn cầu, những bộ óc mang theo tri thức, kinh nghiệm thực chiến và mạng lưới quốc tế tạo xúc tác, cộng hưởng, đòn bẩy kép nâng tầm năng lực công nghệ bán dẫn quốc gia, rút ngắn khoảng cách công nghệ, tăng tốc đổi mới, và bứt phá vươn lên dẫn đầu ngành bán dẫn thế giới.

Samsung là hình mẫu về “nghệ thuật cộng hưởng” giữa nhân tài trong nước và nhân tài Hàn kiều tạo động lực kép vượt lên dẫn đầu về công nghệ chip nhớ.

Samsung bước vào ngành bán dẫn từ năm 1974 với việc mua lại công ty sản xuất chip Korea Semiconductor khi đó đang trên bờ vực phá sản.

Đầu thập kỷ 1980, Samsung đầu tư mạnh tay vào sản xuất chất bán dẫn, nhất là các lĩnh vực chip nhớ DRAM, vì được sử dụng rộng rãi và có thị phần lớn nhất.

Quy trình sản xuất DRAM cũng không đỏi hỏi các công nghệ tiên tiến nhất và cho phép sản xuất hàng loạt với chi phí vừa phải, do vậy rào cản gia nhập thấp so với các công nghệ bán dẫn khác.

Năm 1982, Samsung thành lập Trung tâm R&D bán dẫn để phát triển chip nhớ, đây là nơi kết nối, thu hút nhân tài bán dẫn Hàn kiều từ Nhật Bản và Mỹ.

Nhóm đặc nhiệm hoạch định chiến lược gia nhập ngành sản xuất chip nhớ được thành lập, sau 6 tháng thu thập và phân tích thông tin, nhóm đặc nhiệm lên đường sang Mỹ tham vấn các chuyên gia bán dẫn Hàn kiều.

Năm 1983, Samsung đầu tư lớn cho thiết kế và sản xuất chip 64K. Tiến trình phát triển sản phẩm gồm hai nhóm, một nhóm ở Thung lũng Silicon do 5 tiến sĩ Hàn kiều dẫn dắt cùng 300 kỹ sư Mỹ, có nhiệm vụ thu thập, cập nhật thông tin, nghiên cứu và phát triển sản phẩm DRAM 64K.

Nhóm thứ hai ở Seoul do hai nhà khoa học Hàn kiều dẫn dắt cùng các kỹ sư Hàn Quốc được đào tạo ở các công ty Mỹ, phát triển sản phẩm DRAM 64K trong 6 tháng.

Hai nhóm đặc nhiệm này làm việc trong “tình trạng khẩn cấp”, sinh hoạt tại phòng thí nghiệm và nhận được sự ủng hộ tuyệt đối của Chủ tịch Tập đoàn và không bị giới hạn ngân sách.

Trong 6 tháng, Nhóm Seoul ra đời sản phẩm DRAM 64K, đầu năm 1984, Samsung đứng vị trí thứ ba trên thế giới, chậm 40 tháng so với Mỹ và 18 tháng so với Nhật.

Đầu năm 1984, Samsung thành lập hai nhóm đặc nhiệm mới, một ở Thung lũng Silicon, một ở Seoul để phát triển sản phẩm DRAM 256K, hoạt động độc lập và cạnh tranh, làm việc trong tình trạng khẩn cấp.

Tháng 10/1984, sau 8 tháng, nhóm Seoul cho ra đời sản phẩm DRAM 256K (chậm 18 tháng so với công ty dẫn đầu). Nhóm Silicon cho ra đời sản phẩm vào tháng 7/1985, chậm 10 tháng so với nhóm Seoul nhưng sản phẩm có chất lượng tốt hơn.

Bước ngoặt lớn của Samsung đến vào năm 1985, khi hãng mời được tài năng trẻ Chin Dae-Je rời IBM trở về dẫn dắt Trung tâm nghiên cứu bán dẫn tại Kiheung.

Sự trở về của Chin Dae-Je tạo nên cú hích chiến lược, bước tiến đột phá về công nghệ DRAM đặt nền móng cho vị thế dẫn đầu toàn cầu của Samsung sau này.

Từ năm 1997 đến 1999, ông giữ chức phó chủ tịch điều hành, kiêm Giám đốc điều hành của Samsung Electronics, sau đó trở thành Chủ tịch từ năm 2002 đến 2003. Chin Dae-Je đã dẫn dắt nhóm phát triển chip nhớ DRAM 16 megabit hiện đại đầu tiên, đi trước đối thủ chính lúc đó là Nhật Bản.

Từ đó, ông dẫn đầu quá trình phát triển và thương mại hoá công nghệ DRAM 64 megabit, 128 megabit, và 1 GB đầu tiên trên thế giới. Dưới sự lãnh đạo của ông, Samsung lần lượt thương mại hoá thành công các thế hệ chip nhớ DRAM 64Mb, 128Mb và 1Gb – những cột mốc đưa hãng vươn lên dẫn đầu toàn cầu.

Chin Dae-Je không chỉ là kỹ sư tài năng, mà là kiến trúc sư chiến lược, góp phần làm nên kỳ tích bán dẫn của Samsung và của cả Hàn Quốc.

Khi Chin Dae-Je rời IBM trở về Hàn Quốc làm việc cho Samsung năm 1985, Nhật Bản đang nắm gần 80% thị phần DRAM toàn cầu, trong khi Hàn Quốc chỉ chiếm vỏn vẹn 3%.

Chỉ 6 năm sau, vào năm 1991, thị phần của Nhật giảm xuống còn 57%, trong khi Hàn Quốc tăng vọt lên gần 19%.

Bước ngoặt đến vào năm 1992, khi Samsung vượt qua Nhật Bản, trở thành hãng đầu tiên phát triển thành công DRAM 256Mb – đánh dấu thời điểm Hàn Quốc làm chủ công nghệ và vươn lên dẫn đầu thế giới.

Năm 2011, Hàn Quốc đã trở thành cường quốc chip nhớ của thế giới, chiếm 66% thị phần DRAM toàn cầu, trong khi Nhật Bản chỉ còn giữ 15% trong lĩnh vực bán dẫn chủ chốt này.

Đến năm 2022, Hàn Quốc chiếm 60.5% thị trường chip nhớ toàn cầu, 70.5% thị trường DRAM, và 52.6% thị trường NAND, loại chip nhớ được dùng để lưu trữ dữ liệu.

Cuối năm 2023, hai công ty Hàn Quốc hoàn toàn thống trị thị trường DRAM toàn cầu, với Samsung nắm giữ 45.7% của thị trường và SK Hynix chiếm 31.7%. Theo tính toán của các nhà phân tích, nhân tài bán dẫn Hàn kiều đã giúp Hàn Quốc rút ngắn ít nhất 10 năm rượt đổi các công ty Nhật Bản và Mỹ.

Bài học cho Việt Nam

Hàn Quốc đi sau nhưng đã vươn lên dẫn đầu ngành bán dẫn toàn cầu. Vũ khí chiến lược giúp Hàn Quốc bứt phá vượt lên dẫn đầu chính là nhân lực. Hàn Quốc xác định chip nhớ là “gạo công nghệ”, nhân lực là vũ khí chiến lược, từ đó kiên định theo đuổi các chiến lược và chính sách đầu tư dài hạn, sâu rộng, với tầm nhìn vượt qua mọi chu kỳ kinh tế thông thường.

Thông qua chiến lược đào tạo nhân lực ba tầng được phát triển theo lộ trình bài bản, dài hạn và có chiều sâu kết hợp với chính sách thu hút và kết nối trí tuệ Hàn kiều toàn cầu, Hàn Quốc đã tạo ra động lực kép – rút ngắn khoảng cách công nghệ, làm chủ thiết kế và điều phối toàn bộ chuỗi giá trị toàn cầu.

Với Việt Nam, cạnh tranh địa chính trị và chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu đang mở ra cơ hội chiến lược cho Việt Nam định vị lại vị thế của mình trong chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu.

Với lợi thế địa chính trị, cùng nguồn nhân lực trẻ, khát khao vươn lên và mạnh về STEM, chính là “tài sản chiến lược” để bứt phá, vươn lên trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Tuy nhiên, để chuyển hóa tài sản chiến lược ấy thành vũ khí chiến lược, giúp Việt Nam vươn lên có vị thế xứng đáng trong ngành bán dẫn, điều cốt lõi là đổi mới tư duy chính sách: nâng bán dẫn từ một “lĩnh vực công nghệ cao” thành một ngành công nghiệp chiến lược cốt lõi, gắn trực tiếp với năng lực cạnh tranh và vị thế quốc gia trong Kỷ nguyên số.

Việt Nam cũng cần một quyết tâm chính trị đủ lớn, cùng tầm nhìn chiến lược đủ xa, để vượt lên trên mọi chu kỳ kinh tế thông thường, từ đó đầu tư dài hạn, có chiều sâu, và nhất quán vào tương lai ngành bán dẫn.

Việt Nam cần kiến tạo một hệ sinh thái nhân lực bán dẫn đủ sâu – đủ rộng – đủ tầm. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo mô hình đào tạo ba tầng của Hàn Quốc, Việt Nam không chỉ hướng tới việc lấp đầy các vị trí trong chuỗi sản xuất, mà còn phải xây dựng một hệ sinh thái nhân lực liền mạch – từ kỹ thuật viên sản xuất, kỹ sư thiết kế đến những nhà quản trị chiến lược.

Mỗi tầng cần được chuẩn hóa năng lực, liên tục cập nhật theo nhịp đổi mới công nghệ và dịch chuyển thị trường. Trong đó, tầng quản trị chiến lược cần được dành sự quan tâm đặc biệt, bởi lẽ bán dẫn không chỉ là lĩnh vực kỹ thuật – mà là cuộc chơi của những bộ óc chiến lược ở cấp độ quốc gia, ngành và tổ chức, những 'người vạch lối dẫn đường' với sự am hiểu sâu sắc cả về kỹ thuật bán dẫn, quản trị và chính sách, đủ tầm dẫn dắt ngành bán dẫn vượt lên trong cuộc đua toàn cầu.

Cùng với đó, Việt Nam cần chủ động thu hút và kết nối trí tuệ toàn cầu, đặc biệt là nguồn nhân tài bán dẫn người Việt ở nước ngoài – những người đang nắm giữ tri thức, kinh nghiệm thực chiến và chuẩn mực quốc tế trong ngành công nghệ mũi nhọn này. Khi nội lực và ngoại lực cộng hưởng, tạo đòn bẩy kép đưa ngành bán dẫn Việt Nam vươn lên giành vị thế xứng đáng trong ngành bán dẫn toàn cầu, nâng tầm năng lực công nghệ và vị thế quốc gia trên bản đồ địa chính trị thế giới.