Vì sao cần đặt đối ngoại, hội nhập quốc tế ngang tầm quốc phòng, an ninh?

Vì sao cần đặt đối ngoại, hội nhập quốc tế ngang tầm quốc phòng, an ninh?

0:00 / 0:00
0:00
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam

Việc đặt đối ngoại, hội nhập quốc tế ngang tầm quốc phòng, an ninh có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng khung chiến lược toàn diện cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đánh dấu sự đổi mới về tầm nhìn chiến lược của Đảng trong tình hình mới.

Trong bối cảnh cục diện thế giới chuyển biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường, cùng với sự triển khai mạnh mẽ các quyết sách chiến lược quan trọng của đất nước, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng chỉ đạo:“tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên”. Đây là 3 lĩnh vực có mối quan hệ biện chứng, làm nên sức mạnh tổng hợp trong cách mạng giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc và sự nghiệp đổi mới của đất nước 40 năm qua; đồng thời thể hiện thể hiện tư duy chiến lược, tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước của Đảng cộng sản Việt Nam trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Trong các kỳ Đại hội trước, nếu như lĩnh vực quốc phòng, an ninh được coi là nhiệm vụ trọng yếu, thì lĩnh vực đối ngoại, hội nhập quốc tế được nhắc đến như một trong những nhiệm vụ quan trọng. Trước thềm Đại hội Đảng lần thứ XIV, lần đầu tiên Bộ Chính trị xác định "tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên”.

A-sub1.jpg

Ở thời kỳ đổi mới, trong bối cảnh nền chính trị thế giới biến động sâu sắc, để thực hiện thắng lợi Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) xác định, “giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước”. Lĩnh vực quốc phòng, an ninh kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội.

Năm 1996, bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ đặt ra yêu cầu mới cho lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đặc biệt là đối ngoại. Đại hội Đảng lần thứ VIII nhận định: “Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế. Gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, hai mặt có mối quan hệ khăng khít trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ trong tình hình mới. Phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại”.

Mối quan hệ biện chứng giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại được nhận thức đầy đủ hơn trong Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 12-7-2003 của Hội nghị Trung ương 8 khóa IX, “Về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, và cụ thể hóa trong “Luật Quốc phòng” (2005). Điều 5 của Luật Quốc phòng 2005 chỉ rõ nguyên tắc của hoạt động quốc phòng là “kết hợp với hoạt động an ninh và hoạt động đối ngoại”.

Điều này cũng được khẳng định trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2009: “Quốc phòng Việt Nam luôn gắn bó mật thiết với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam”.

dieubinh-1755509704302782620334.jpg
Lần đầu tiên, trong Văn kiện Đảng, Trung ương Đảng xác định đối ngoại, hội nhập quốc tế đặt ngang hàng với quốc phòng, an ninh và đều là trọng yếu, thường xuyên.

Tư duy về mối quan hệ biện chứng giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại, hội nhập quốc tế được phát triển lên tầm cao mới, thể hiện qua các Nghị quyết quan trọng điển hình của Đảng như: Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31-12-2013 của Quân ủy Trung ương về Hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

Bộ Quốc phòng cũng nhanh chóng sửa đổi “Luật quốc phòng” năm 2018 cho phù hợp với bối cảnh mới của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Điều 3, mục 5 của “Luật quốc phòng” (sửa đổi - 2018) xác định nguyên tắc của hoạt động quốc phòng là: “Kết hợp quốc phòng với an ninh, đối ngoại”. Đồng thời, “Sách trắng Quốc phòng năm 2019” cũng nhận định: “Thực hiện Chiến lược Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là nhiệm vụ quan trọng, là kế sách giữ nước từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình”.

Đại hội Đảng lần thứ XIII (2021) chỉ đạo chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc.

Quá trình hội nhập quốc tế, sự phối hợp hoạt động giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao trong giải quyết các vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh và đối ngoại ngày càng hiệu quả. Mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại, hội nhập quốc tế từng bước được mở rộng trong phạm vi cả nước, từng ngành, từng địa phương. Các đơn vị quân đội, an ninh đã kết hợp chặt chẽ giữa đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường, củng cố sức mạnh quốc phòng, an ninh không vì lợi ích kinh tế trước mắt mà coi nhẹ yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước.

Trước thềm Đại hội Đảng lần thứ XIV, tình hình thế giới, khu vực biến động phức tạp, nhanh chóng và khó lường. Để thích ứng với những thay đổi này, Bộ Chính trị Việt Nam đã tiếp tục ban hành Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24-1-2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới. Đây là văn bản chỉ đạo quan trọng, mang tính tổng thể của Đảng về hội nhập quốc tế, đề ra các mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và định hướng nhiệm vụ, giải pháp lớn để nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính đồng bộ, toàn diện, sâu rộng của hội nhập quốc tế.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong Nghị quyết số 59 - NQ/TW thể hiện qua việc: Giữ vững môi trường hòa bình và cục diện đối ngoại thuận lợi. Xây dựng củng cố lòng tin chiến lược, gia tăng đan xen lợi ích ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột; Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại, kết hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Nghị quyết số 59 được Bộ Chính trị đánh giá là một trong 4 Nghị quyết “trụ cột” làm nên Dự thảo các văn kiện trình Đại hội lần thứ XIV của Đảng. Lần đầu tiên, trong Văn kiện Đảng, Trung ương Đảng xác định đối ngoại, hội nhập quốc tế đặt ngang hàng với quốc phòng, an ninh và đều là trọng yếu, thường xuyên. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng một khung chiến lược toàn diện hơn cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đánh dấu sự đổi mới về tầm nhìn chiến lược của Đảng trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và cạnh tranh địa - chính trị, kinh tế toàn cầu ngày càng trở nên gay gắt.

A-sub2.jpg

Trong nhiệm kỳ qua, đối ngoại Việt Nam dù đứng trước sự biến động của tình hình thế giới phức tạp, khó dự báo, song đây lại là lĩnh vực được đánh giá là rất thành công. Hiện nay, Việt Nam hiện có quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia và vùng lãnh thổ, có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 38 quốc gia, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) và 17/20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20).

Đảng ta có quan hệ với 253 chính đảng ở 115 quốc gia trên thế giới, trong đó bao gồm 92 đảng cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 38 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính. Quốc hội có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia.

Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ chức nhân dân cũng đã triển khai đối ngoại thiết thực với 1.200 tổ chức nhân dân và đối tác nước ngoài. Đối ngoại quốc phòng, an ninh và đối ngoại chuyên ngành ngày càng mở rộng, đóng góp quan trọng vào kết quả đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân

Đây là cơ sở để Trung ương Đảng xác định đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế thể hiện quyết tâm của Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị làm tốt vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; thu hút được nguồn lực bên trong quyết định với nguồn lực bên ngoài làm nên thành công mới của đất nước; là vấn đề đối tác, đối tượng trong quan hệ quốc tế...

QBTNG-va-BTNGTMLD-Tuvalu-17587-2.jpg
Với việc thiết lập quan hệ với đảo quốc Tuvalu ở nam Thái Bình Dương hồi tháng 9/2025, Việt Nam trở thành quốc gia thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả nước thành viên Liên Hợp Quốc.

Bước vào kỷ nguyên mới, Đảng ta nhận định hoà bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn, song đứng trước nhiều thách thức mới. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ đối ngoại, hội nhập quốc tế không còn là nhất thời, mà phải liên tục, theo dõi và chủ động điều phối chính sách theo từng diễn biến mới. Để phát huy được “sức mạnh mềm” của Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã xác định, đối ngoại, hội nhập quốc tế phải trên cơ sở chủ động, tích cực đóng góp vào hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển bền vững trên tinh thần là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; tham gia chủ động, có trách nhiệm vào việc giải quyết các vấn đề chung của khu vực và quốc tế.

Việc xác lập đối ngoại, hội nhập quốc tế là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên”, đặt ra yêu cầu về tính toàn diện, hiện đại. Báo cáo Chính trị xác định triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại trên cả 3 trụ cột: Đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân thống nhất từ Trung ương đến địa phương; Đẩy mạnh ngoại giao toàn diện phục vụ phát triển, trọng tâm là ngoại giao kinh tế, ngoại giao công nghệ… cho phép nâng cao vai trò của Bộ Ngoại giao, các cơ quan làm công tác đối ngoại và hệ thống ngoại vụ cấp tỉnh để phối hợp kịp thời cùng với quốc phòng, an ninh nhằm chủ động khai thác cơ hội, chủ động ứng phó kịp thời, hiệu quả với các thách thức mới.

sub b2.jpg

Mối quan hệ biện chứng giữa quốc phòng - an ninh - đối ngoại, hội nhập quốc tế được đặt trong cùng một chỉnh thể thống nhất, cùng được xác định “là trọng yếu thường xuyên”, phản ánh sâu sắc tầm nhìn toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam về sức mạnh tổng hợp quốc gia.

Trong bối cảnh thế giới cạnh tranh, đối đầu gay gắt, an ninh truyền thống và phi truyền thống tác động mạnh mẽ đến các quốc gia – dân tộc, thì vấn đề bảo vệ Tổ quốc không chỉ giới hạn ở lĩnh vực quân sự, an ninh truyền thống, mà còn gắn chặt với đối ngoại, hội nhập quốc tế. Quốc phòng, an ninh và đối ngoại là 3 trụ cột của sức mạnh tổng hợp quốc gia, vừa là lá chắn bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vừa là nền tảng chiến lược bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Quốc phòng là trụ cột đầu tiên bảo bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước. Nền quốc phòng vững mạnh bao hàm tiềm lực quân sự và năng lực phòng thủ tổng hợp toàn dân, toàn diện, vững chắc mới bảo vệ được thành quả của công cuộc đổi mới trong 40 năm qua; đồng thời đảm bảo môi trường hòa bình để đất nước “vươn mình” phát triển; là cơ sở để Việt Nam giữ vững độc lập, tự chủ, uy tín và vị thế trong quan hệ quốc tế.

tphcm-1-1751245519173693919081.jpg
Đối ngoại, hội nhập quốc tế - trụ cột thứ 3 - là công cụ “mềm” để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

An ninh là trụ cột thứ hai đảm bảo cho sự ổn định bên trong của đất nước. Sự ổn định chính trị - xã hội, là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho quốc phòng và đối ngoại, hội nhập quốc tế được thành công. Trong kỷ nguyên mới, các thách thức an ninh phi truyền thống như tội phạm công nghệ cao, an ninh mạng, an ninh nguồn nước sông Mê Kông, biến đổi khí hậu, di cư, khủng bố quốc tế... ngày càng gia tăng, tác động sâu sắc tới an ninh quốc gia. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với lực lượng Công an nhân dân phải chủ động nắm tình hình, phát hiện sớm, xử lý từ gốc.

Đối ngoại, hội nhập quốc tế - trụ cột thứ 3 - là công cụ “mềm” để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Trong bối cảnh thế giới đa cực, đa trung tâm, phân tuyến và đối đầu gay gắt, đối ngoại, hội nhập quốc tế phải trở thành mặt trận hòa bình của quốc gia. Quan điểm tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại, phối hợp chặt chẽ với quốc phòng, an ninh, các ngành, các cấp, các địa phương chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột, tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc giúp Việt Nam mở rộng không gian phát triển, tranh thủ nguồn lực, công nghệ, tri thức..., đồng thời tăng cường vị thế, uy tín quốc tế.

Như vậy, quan điểm “tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên” là một trong 18 điểm mới trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XIV của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.

Việc bổ sung đối ngoại, hội nhập quốc tế vào nhóm nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên không chỉ thay đổi tư duy, mà còn là đòn bẩy chiến lược, đưa đối ngoại, hội nhập quốc tế trở thành công cụ cốt lõi của an ninh quốc gia và phát triển bền vững. Sự đổi mới này khẳng định Việt Nam quyết tâm chủ động, linh hoạt và toàn diện trong vận dụng sức mạnh mềm, nâng cao vị thế trên trường quốc tế trong kỷ nguyên mới.