Tín dụng tăng nhanh, cầu huy động lớn, mặt bằng lãi suất có dâng lên?

Với định hướng tăng trưởng GDP 8,3-8,5%, tín dụng ước tính tăng 18-19%, kéo theo cầu huy động lớn. Điều này được cho là sẽ tác động đến mặt bằng lãi suất, vốn cũng đang chịu áp lực từ tỷ giá.
Tín dụng cao nhất nhiều năm qua. Ảnh minh hoạ

Lãi suất có thể tăng?

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến cuối tháng 8/2025, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt khoảng 17,146 triệu tỷ đồng, tăng 11,82% so với cuối năm 2024. Đây là mức cao nhất kể từ năm 2018 đến nay.

Sự gia tăng mạnh mẽ của tín dụng đòi hỏi các ngân hàng phải gia tăng huy động, không chỉ để đáp ứng nhu cầu cho vay mà còn để bảo đảm thanh khoản hệ thống.

Trên thực tế, một số ngân hàng đã bắt đầu tung ra nhiều gói sản phẩm tiền gửi ưu đãi, lãi suất bậc thang, hoặc khuyến mãi đi kèm để hút dòng tiền. Đây là tín hiệu cho thấy áp lực huy động vốn đã bắt đầu xuất hiện.

Yếu tố mùa vụ cũng khiến nhu cầu vốn cuối năm trở nên căng thẳng. Cụ thể, trong quý IV và giai đoạn giáp Tết, các doanh nghiệp phải gia tăng thanh toán đơn hàng xuất nhập khẩu, nhập khẩu nguyên vật liệu, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phục vụ Tết và chi trả lương thưởng cuối năm. Đây là chu kỳ cao điểm giải ngân vốn, tạo nên sức ép lớn lên hệ thống ngân hàng.

"Để đáp ứng nhu cầu này, các ngân hàng cần tăng cường huy động tiền gửi nhằm bảo đảm sẵn sàng thanh khoản, phục vụ kịp thời khách hàng. Chính điều đó khiến mặt bằng lãi suất huy động có xu hướng nhích lên trong những tháng cuối năm”, ông Nguyễn Quang Huy - CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng, Đại học Nguyễn Trãi, trao đổi với VietTimes.

Tuy nhiên, ông Huy cũng cho rằng năm 2025 có sự khác biệt so với nhiều giai đoạn trước. Sự khác biệt đó nằm ở bức tranh quốc tế và trong nước có nhiều điểm thuận lợi, giúp giảm thiểu sức ép tăng lãi suất quá mạnh.

Cụ thể, có ít nhất 4 yếu tố tích cực đang tạo ra "vùng đệm" cho chính sách tiền tệ của Việt Nam. Một là Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) dự báo sẽ hạ lãi suất. Khi lãi suất USD giảm, áp lực dòng vốn dịch chuyển ra khỏi VND sẽ giảm, đồng thời chênh lệch lãi suất VND - USD không còn là gánh nặng buộc Việt Nam phải tăng lãi suất để giữ ổn định tỷ giá.

Hai là dòng kiều hối tăng mạnh. Cuối năm cũng là mùa cao điểm kiều hối, bổ sung nguồn cung ngoại tệ đáng kể, vừa tạo nguồn vốn ngoại tệ, vừa gián tiếp hỗ trợ thanh khoản VND.

Ba là FDI giải ngân tăng tốc. Các dự án FDI lớn tiếp tục giải ngân mạnh, góp phần cải thiện cán cân thanh toán và củng cố dự trữ ngoại hối.

Bốn là cơ chế tỷ giá linh hoạt và dự trữ ngoại hối còn ở mức khá. Ngân hàng Nhà nước hiện có đủ công cụ để điều tiết, giảm thiểu biến động bất thường.

"Những yếu tố này giúp tỷ giá duy trì ổn định, giảm sức ép phải nâng mạnh lãi suất VND", ông Huy nhấn mạnh.

Đồng quan điểm với ông Huy, TS Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TP.HCM, nhìn nhận Việt Nam có cơ hội duy trì mặt bằng lãi suất thấp trong thời gian tới. Nguyên do chính yếu là FED có khả năng giảm lãi suất.

"Tất nhiên việc duy trì lãi suất thấp của Việt Nam còn phụ thuộc vào các biến số: số lần FED giảm lãi suất, tốc độ giảm và mức giảm của mỗi lần", ông Huân nói.

PGS.TS Phạm Thế Anh của Đại học Kinh tế Quốc dân, cũng cho rằng động thái với lãi suất của FED là tín hiệu rất quan trọng đối với chính sách tiền tệ của Việt Nam.

"Việc cắt giảm mạnh tay là khó, nhưng trong tháng 9, xác suất FED giảm 0,25% là rất cao", ông Thế Anh thông tin.

Tác động không đáng kể tới nền kinh tế

Với bối cảnh như trên, giới chuyên gia nhận định lãi suất huy động có thể tăng trong những tháng cuối năm 2025 song mức tăng không lớn.

Chuyên gia đánh giá lãi suất có thể tăng trong cuối năm nhưng mức tăng không lớn. Ảnh: NM

Ông Nguyễn Quang Huy cho rằng lãi suất có thể tăng tối đa khoảng 0,5 điểm % so với hiện nay. Mức tăng chủ yếu diễn ra vào các tháng cuối năm và tập trung ở kỳ hạn ngắn, nhằm phục vụ nhu cầu thanh khoản tức thời của ngân hàng. Ở kỳ hạn trung và dài hạn, mặt bằng lãi suất nhiều khả năng vẫn ổn định, để bảo đảm chi phí vốn của doanh nghiệp không bị đẩy lên quá cao.

"Điều này có nghĩa áp lực tăng lãi suất là hiện hữu, nhưng nằm trong tầm kiểm soát, không tạo cú sốc cho thị trường. Lãi suất cho vay có thể chỉ nhích nhẹ từ 0,3-0,5 điểm % nhưng khó có thể xảy ra tình trạng tăng đồng loạt", ông nói.

Đánh giá về điều hành của NHNN, ông Huy cho rằng cơ quan này có thể sử dụng nhiều công cụ điều tiết để giữ lãi suất cho vay ở mức hợp lý, duy trì thanh khoản liên ngân hàng dồi dào, hỗ trợ vốn cho lĩnh vực ưu tiên, hoặc áp dụng cơ chế hạn mức tín dụng linh hoạt.

Về cơ bản, các lĩnh vực then chốt như nông nghiệp, xuất khẩu, sản xuất công nghiệp… vẫn sẽ được ưu tiên tiếp cận vốn với mức lãi suất hợp lý.

Như vậy, xét trên tổng thể, tác động tiêu cực là rất nhỏ. Ngược lại, tác động tích cực còn rõ rệt hơn, đó là tăng huy động vốn bền vững, ổn định tỷ giá, củng cố niềm tin vào thị trường và tạo môi trường an toàn cho nhà đầu tư, doanh nghiệp.

Ở góc độ chiến lược, ông Huy nhìn nhận 2025 là một thử thách lớn với hệ thống ngân hàng khi vừa phải đáp ứng nhu cầu vốn tăng cao, vừa phải giữ ổn định vĩ mô. Nhưng nhờ dự trữ ngoại hối được duy trì, chính sách tỷ giá linh hoạt, dòng vốn ngoại thuận lợi và triển vọng FED hạ lãi suất, dư địa điều hành của Ngân hàng Nhà nước sẽ thoải mái hơn so với những giai đoạn căng thẳng trước đây.

Điều này giúp NHNN có thể theo đuổi mục tiêu kép: đảm bảo mặt bằng lãi suất huy động tăng vừa phải, trong biên độ kiểm soát và giữ ổn định lãi suất cho vay, tránh tạo gánh nặng chi phí vốn cho doanh nghiệp. Kết quả là nền kinh tế vừa có vốn để tăng trưởng mạnh mẽ, vừa giữ được ổn định vĩ mô và niềm tin thị trường.