Bệnh nhân là anh N.V.S (39 tuổi) nhập viện với một khối u khổng lồ vùng ngực lưng. Khối u to hơn cả phần ngực và lưng còn lại của người bệnh. Do quá to nên khối u đã vỡ, gây chảy máu ồ ạt bên trong u, có lúc nguy hiểm đến tính mạng người bệnh.
Anh S. cho biết, anh lớn lên cùng với khối u toàn bộ bên ngực phải và lưng. Khối u càng ngày càng to. Hơn 20 năm trước, bố mẹ đã đưa anh S. lên bệnh viện tỉnh để mổ, nhưng khi phẫu thuật khối u chảy máu quá nhiều nên bác sĩ phải đóng lại. Gia đình đành chấp nhận đưa con về và hy vọng chung sống với u.
Tuy nhiên, khối u ngày càng lớn thêm, to hơn cả phần ngực và lưng của bệnh nhân, mà vẫn không dừng lại. Một hôm anh S. không may bị va nhẹ vào mạng sườn, khối u lập tức sưng to, căng tức. Gia đình đưa anh S. lên bệnh viện địa phương để cấp cứu. Các bác sỹ đã chỉ định phẫu thuật, lần này máu trong u chảy ra xối xả nên các bác sỹ chỉ có thể nhét vào đó hơn 20 miếng gạc to để cầm máu, sau đó băng ép chặt lại để chuyển đến Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cấp cứu.
PGS.TS. Nguyễn Hồng Hà - Trưởng khoa Phẫu thuật Hàm mặt, Tạo hình và Thẩm mỹ, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức - cho biết, bệnh nhân nhập viện trong tình trạng rất nặng do sốc mất máu, toàn thân đã xuất hiện dấu hiệu suy gan, suy thận. Khối u chiếm hết toàn bộ phần ngực lưng bên phải, căng bóng chỉ, dọa vỡ tung ra. Khi sờ vào khối u cũng nóng hơn bình thường 1 đến 2 độ, chứng tỏ trong khối u có sự tăng sinh mạch máu rất lớn. Đó là lý do cứ mở khối u ra là máu cứ chảy ra không cầm được trong những lần mổ ở tuyến dưới .
Bệnh nhân được chuyển ngay vào khu Hồi sức cấp cứu. Các bác sĩ chẩn đoán anh S. bị chứng u xơ thần kinh. U đã bị vỡ bên trong gây tình trạng chảy máu trong khối u, nếu vỡ ra ngoài sẽ lập tức nguy hiểm đến tính mạng.
Ngay lập tức, anh S. được chỉ định làm xét nghiệm cận lâm sàng, chụp chiếu chẩn đoán hình ảnh đánh giá mức độ khối u và sức khỏe bệnh nhân. Các kỹ thuật viên cũng rất kinh ngạc khi thấy u khổng lồ vùng ngực lưng này còn to hơn cả phần ngực lưng lành lặn còn lại của bệnh nhân (Ảnh phim chụp CT trước mổ).
Nguy hiểm hơn nữa là hình ảnh chụp mạch cho thấy bên trong khối u dày đặc các mạch máu to như ngón tay chạy ngoằn ngoèo. Do tính chất khối u, các mạch máu này không còn khả năng đàn hồi chun giãn, nên 1 khi bị vỡ ra rất khó cầm máu.
“Khó khăn đặt ra ở đây là khối u quá to, chiếm quá nửa cơ thể của bệnh nhân. Khối u lại dày đặc mạch máu đang vỡ và chảy bên máu bên trong, nếu chậm trễ phẫu thuật người bệnh có thể chết vì mất máu hoặc suy gan suy thận.
"Bên cạnh đó, nếu trong tình trạng này mà cố gắng cắt hết u trong một lần phẫu thuật, có thể người bệnh cũng sẽ tử vong trên bàn mổ. Các bác sĩ đã quyết định phải tiến hành phẫu thuật theo nhiều giai đoạn, ít nhất là hai lần: Lần đầu sẽ cắt khối u vùng ngực của bệnh nhân để tạm thời cầm máu, tạo điều kiện để các bác sỹ gây mê hồi sức cho toàn trạng người bệnh khá hơn, thoát khỏi tình trạng suy gan suy thận. Nếu như bệnh nhân có thể bình phục được sau lần mổ thứ nhất thì sẽ tiến hành cắt tiếp khối u vùng lưng để giải quyết phần lớn khối u”- PGS Nguyễn Hồng Hà cho biết thêm.
Do khối u quá lớn, nên khi mổ, vết mổ chảy máu dữ dội, tuy nhiên, trước mổ các bác sĩ chẩn đoán hình ảnh đã phải tiến hành nút bớt các mạch máu, đồng thời các bác sĩ phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ đã phải dùng đến hai dao siêu âm cực lớn vốn chỉ được dùng cầm máu trong cắt gan để vừa mổ vừa hàn mạch, giảm nguy cơ chảy máu.
Hàng chục chuyên gia từ các chuyên khoa như huyết học, truyền máu, thận lọc máu, chẩn đoán hình ảnh, gây mê hồi sức,… phối hợp với các bác sỹ phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ thăm khám kỹ càng và đề ra phương án điều trị lâu dài cho người bệnh.
Ê-kíp phẫu thuật huy động gần 10 phẫu thuật viên và 20 nhân viên, bác sỹ khu mổ và gây mê hồi sức. Sau 2 lần phẫu thuật, mỗi lần 6 đến 7 tiếng, các bác sỹ đã cắt được hầu hết khối u vùng lưng và ngực, tổng cộng khoảng 23 kg. Tổng lượng máu phải truyền cho bệnh nhân là hơn 5 lít.
"Sau 2 lần phẫu thuật, giờ thì phần cơ thể ngực và lưng của bệnh nhân đã trở về gần như người bình thường. Các vết thương đang trong quá trình liền sẹo. Các phần u sưng to hay nóng giàu mạch máu đã không còn trên cơ thể. Bệnh nhân có thể trở lại cuộc sống sinh hoạt nhẹ nhàng và thoải mái nhanh nhẹn hơn nhiều so với trước mổ” - PGS Nguyễn Hồng Hà cho hay.
Theo TS.BS Đào Văn Giang - Phó Trưởng khoa Phẫu thuật Hàm mặt, Tạo hình và Thẩm mỹ, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức: U xơ thần kinh (Neurofibromatosis NF) thường có 3 typ. Trong 3 loại này loại typ 1 (NF1) là hay gặp nhất, nó còn được gọi là bệnh Von Recklinghausen hay u xơ thần kinh biểu hiện ở da, sau đến typ 2 thường biểu hiện ở trong nội tạng hay trong hệ thần kinh trung ương và typ 3 hiếm gặp.
Tỷ lệ mắc bệnh Von Recklinghausen (NF1) là 1/2000 dân; typ 2 là 1/35.000 dân. Một trong những nguyên nhân của bệnh NF1 là do biến đổi cấu trúc gen trên nhiễm sắc thể số 17, sự biển đổi này ảnh hưởng đến gen quy định về xơ sợi thần kinh làm phát triển khối u theo chiều hướng ác tính hoặc lành tính. Theo y văn thế giới tỷ lệ di truyền của bệnh này là 50/50, như vậy có những trường hợp bệnh nhân mắc bệnh nhưng không có thành viên nào khác trong gia đình mắc bệnh. Hiểu theo cách khác là nếu một trong hai bố mẹ bị bệnh thì tỉ lệ có thể bị bệnh của con cái là 50/50.
Bệnh NF1 thường biểu hiện ra da và thần kinh ngoại biên, những triệu chứng đầu tiên được phát hiện từ khi còn nhỏ như: những vết café sữa trên da, da có nhiều tàn nhang hay gặp ở vùng nách hay bẹn, khối u vùng mi mắt, những khối u xơ thần kinh lớn nửa mặt, đầu, gáy (bờm ngựa), chi trên (tay gấu) chi dưới (chân voi) hoặc u khổng lồ toàn bộ vùng lưng, mông của bệnh nhân.
Ngoài ra u còn có thể có ở một số vị trí khác như trong não, u tuyến thượng thận, gan to, u dây thần kinh thị, xương (có thể gây ngắn hoặc khuyết xương). Chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào bệnh cảnh lâm sàng và tiền sử gia đình. Một số biến thể của u xơ thần kinh phát triển ác tính chiếm 8-12 % số ca. Cần có xét nghiệm để kiểm tra như: sinh thiết lấy u phía trong cơ thể, làm giải phẫu bệnh khối u trên da. Chẩn đoán hình ảnh thường dùng là MRI hoặc CT Scanner. Xét nghiệm gene di truyền giúp xác định gene đột biến gây bệnh, các chuyên gia di truyền có thể tư vấn khả năng truyền bệnh trước khi lập gia đình và có con.