Chuyển đổi số không còn là sự lựa chọn "Có" hay "Không" mà đây là việc cần thiết phải làm để bắt kịp với xu thế phát triển nhanh chóng của công nghệ. Ở nước ta, chuyển đổi số là mục tiêu được Đảng và Nhà nước xác định từ rất sớm. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ đại hội XIII là: “Thực hiện CĐS quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế”.
Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Trong giai đoạn vừa qua, nhiều cơ quan nhà nước và doanh nghiệp đã nỗ lực chuyển đổi số để cung cấp các dịch vụ và sản phẩm tốt nhất cho người dân.
Một trong những thành phần quan trọng khi chuyển đổi số là đào tạo nguồn nhân lực. Để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số thì Việt Nam cũng cần một nguồn nhân lực công nghệ dồi dào.
Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông, cả nước có 242 trường Đại học, trong đó có 158 trường có đào tạo CNTT, điện tử - viễn thông và An toàn thông tin (tỷ lệ là 65%).
VietTimes đã có cuộc trao đổi với PGS TS Nguyễn Văn Minh – Viện trưởng Viện Đào tạo và Tư vấn Doanh nghiệp, Trường Đại học Ngoại thương xung quanh chủ đề chuyển đổi số và đào tạo nguồn nhân lực công nghệ.
PV: Ông nhận xét gì về thực trạng chuyển đổi số tại các cơ quan nhà nước, tổ chức và doanh nghiệp trong giai đoạn hậu Covid vừa qua?
PGS TS Nguyễn Văn Minh: Chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về chuyển đổi số đã được đề ra từ rất sớm. Từ đó, chính phủ số đã có được những bước tiến rất lớn mà điển hình là đột phá về cung cấp các dịch vụ công. Cổng dịch vụ công quốc gia đã vận hành rất hiệu quả. Tiếp đó là đã tổ chức được các khối dữ liệu lớn của các ngành và liên thông dữ liệu với nhau. Đó là những tiền đề rất tốt để phục vụ mọi nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.
Những đột phá về chính phủ số đã góp phần tạo ra đột phá về nền tảng số để phục vụ các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số. Hay nói cách khác là đột phá để giúp kinh tế số phát triển. Có thể phân kinh tế số thành nhiều lớp. Đầu tiên phải có hạ tầng số tức là hạ tầng viễn thông, băng thông, đường truyền… do các doanh nghiệp như VNPT, Viettel, FPT… cung cấp. Mặc dù đi sau nhiều nước nhưng hạ tầng số của Việt Nam không hề thua kém. Đó là huyết mạch của kinh tế số với giá cước rẻ cùng tỷ lệ người dùng Internet chiếm tới 70% dân số.
Kinh tế số đi theo các ngành để cung cấp dịch vụ dựa trên hạ tầng số. Mảng này về cơ bản ở nhiều nơi mới chỉ là bắt đầu. Mục tiêu là các dịch vụ cung cấp trên hạ tầng số phải trở thành dịch vụ thông dụng, phổ thông để người dân, doanh nghiệp khai thác, sử dụng. Trong đó, một số ngành phát triển rất tốt mà điển hình là thương mại điện tử.
Có thể nói, chính phủ số và xã hội số có vận hành được tốt hay không chính là tiền đề, là điều kiện cần để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp số. Ở đây, doanh nghiệp có thể phân ra 2 loại. Thứ nhất là doanh nghiệp số bẩm sinh, tức là họ đã dựa trên các nền tảng số để phát triển kinh doanh. Đó là các doanh nghiệp kinh doanh về thương mại điện tử mà điển hình như dịch vụ Grab. Những loại hình doanh nghiệp này theo tôi chưa đến 10% và thậm chí ít hơn. Số còn lại chiếm đại đa số là doanh nghiệp truyền thống.
Cách mạng Công nghiệp 4.0 đã tạo ra môi trường kinh doanh mới. Đó là môi trường giữa thực và số. Doanh nghiệp truyền thống chỉ có 2 lựa chọn. Một là phải chuyển đổi số để thích ứng với môi trường kinh doanh mới và không bị tụt hậu, đứng ngoài cuộc. Và thứ hai là sẽ bị diệt vong vì không thích ứng.
Như vậy, chuyển đổi số liên quan đến nhận thức của doanh nghiệp. Chính thực tế của dịch cúm Covid-19 đã tác động rất lớn đến việc doanh nghiệp phải chuyển đổi số. Khi đó, chuyển đổi số đã trở thành nhu cầu bức thiết của xã hội mà đặc biệt là với doanh nghiệp trong điều kiện về cơ bản là các hệ thống vật lý bị đứng lại và lâm vào thế bắt buộc phải chuyển đổi số.
Covid-19 đã thực sự trở thành cú hích để thức tỉnh chuyển đổi số với các doanh nghiệp chậm thay đổi tư duy. Nếu như không có chuyển đổi số, không có các phương thức kinh doanh mới thì hoàn toàn không thể làm ăn được. Và như vậy, đại đa số các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức được việc chuyển đổi số là cần thiết. Bài toán ở đây là bản thân các doanh nghiệp phải tìm được cách thức phù hợp để thực hiện chuyển đổi số cho chính mình.
PV: Trong xã hội, doanh nghiệp thường là đơn vị nhanh nhạy nhất trong chuyển đổi số. Theo ông, khi chuyển đổi số, doanh nghiệp cần phải lưu ý đến những yếu tố gì?
PGS TS Nguyễn Văn Minh: Chuyển đổi số là hành trình mà doanh nghiệp thực hiện một cuộc cách mạng để thay đổi hình thái hoạt động kinh doanh, để thích ứng với bối cảnh mới. Bối cảnh mới có rất nhiều điều kiện rất khó tiên lượng. Và đặc điểm của xã hội số là phải kinh doanh thông minh, là phải biết khai thác dữ liệu, khai thác điện toán đám mây… Những thực tế đó có thể là không quen với các doanh nghiệp truyền thống. Cho nên, từ nhận thức đến hành động là một khoảng cách rất xa.
Chuyển đổi số cũng có cái khó là nó không có hình mẫu nào cả và phải tự làm, phải là chính chủ, phải xuất phát từ chính lãnh đạo. Làm cách mạng với doanh nghiệp thì phải có giới tinh hoa lãnh đạo doanh nghiệp dẫn dắt. Và cuộc cách mạng chỉ thành công khi có giới tinh hoa dẫn dắt và được sự ủng hộ của toàn bộ cán bộ, nhân viên. Vì thế, chỉ khi lãnh đạo doanh nghiệp tham gia từ đầu và vượt qua được sự sợ hãi để dũng cảm thay đổi cách thức tổ chức, huy động được sự ủng hộ của đại đa số người lao động trước những thay đổi đó thì chuyển đổi số mới có kết quả.
Bất kể ở đâu cũng có những sức ỳ, thói quen cố hữu không dễ gì thay đổi. Cho nên, sự thành công trong chuyển đổi số ở những nhịp đầu tiên chỉ có 30%. Và những vòng lặp số sau đó thì lại càng khó hơn. Tới vòng 2 thì sự thành công cũng chỉ 30%, tức là thực chất xác suất thành công chỉ còn 9%. Từ đó nói lên chuyện là đại đa số doanh nghiệp đều đã thấy sự cần thiết của chuyển đổi số. Tuy nhiên, đại đa số vẫn lúng túng trong việc làm thế nào tìm được con đường phù hợp cho chuyển đổi số cho doanh nghiệp của mình.
Nói đến chuyển đổi số là nói đến công nghệ, nhưng thực chất chuyển đổi số lại không bắt đầu từ công nghệ. Chuyển đổi số bắt đầu từ việc hình dung về hình thái chuyển đổi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thích ứng với môi trường số. Nhiều doanh nghiệp nhầm lẫn khi chưa hình dung được hình thái chuyển đổi đã đầu tư lớn vào công nghệ, rồi không khai thác được hiệu quả dẫn đến thất bại.
Thất bại thứ hai là do không tự làm, không nghĩ là muốn thực hiện chuyển đổi số, bản thân mình phải thay đổi để thích ứng, mà cứ nghĩ là ai đó sẽ tư vấn, sẽ giúp mình thay đổi. Thực tế, nhà tư vấn chỉ có thể giúp họ về mặt phương pháp mà thôi. Và khi tiếp cận đến một hoạt động mới thì đòi hỏi khả năng tự học, khả năng chuyển hoá để tìm ra lý luận cho chuyển đổi số của chính mình.
Đây là thực tế yếu kém của số đông doanh nghiệp. Như vậy, lý luận về chuyển đổi số với mỗi doanh nghiệp là hết sức quan trọng và quyết định. Sau đó mới nói đến các chương trình, kế hoạch cụ thể cho chuyển đối số.
PV: Theo ông, các trường đại học ở Việt Nam cần phải làm gì để đáp ứng nhu cầu nhân lực số của xã hội và doanh nghiệp?
PGS TS Nguyễn Văn Minh: Giáo dục đại học chắc chắn có vai trò rất quan trọng vì về bản chất là cái nôi để đào tạo nguồn nhân lực. Đứng trước một sự thay đổi lớn về công nghệ, đứng trước bước ngoặt của thời đại thì trường đại học phải có tính chủ động để đào tạo các kiến thức và kỹ năng về công nghệ số và các nghề nghiệp để giúp sinh viên thích ứng với thời đại mới.
Cái khó của công nghệ số ở chỗ không mang tính đơn ngành mà là công nghệ tích hợp, liên ngành, thậm chí là xuyên ngành. Công nghệ số dựa trên các công nghệ lõi như Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ chuỗi khối (Blockchain)… Xã hội và doanh nghiệp đang cần rất nhiều những tầng lớp nhân sự mới để kinh doanh bằng công nghệ. Tức là họ phải vừa hiểu về kinh doanh, vừa thành thạo sử dụng và hiểu về công nghệ.
Chính vì vậy, các trường đại học cần nhanh chóng triển khai đào tạo nguồn nhân lực số, đủ năng lực làm chủ các công nghệ cơ bản như: Dữ liệu, IoT, Cloud, AI, bán dẫn…
Sản phẩm và dịch vụ trong thời đại số là sản phẩm và dịch vụ liên ngành và xuyên ngành. Điều đó đòi hỏi các đại học phải mở rộng các chương trình đào tạo mới và bản thân các trường cũng cần trở thành đại học thực số trong các phương thức đào tạo. Sinh viên có thể học trực tiếp và trực tuyến hoặc kết hợp cả hai hình thức này.
Các trường đại học phải tạo được không gian số cho sinh viên mọi lúc, mọi nơi và chuyển từ học tập theo điểm lên học tập trong không gian số. Như vậy, các đại học phải tổ chức lại hệ thống, xây dựng chiến lược chuyển đổi số một cách nghiêm túc và bài bản.
Sẽ có những hình thức đại học mới. Theo đó, đại học truyền thống phải chuyển đổi số để trở thành đại học số. Trong đó có những đại học mà bẩm sinh đã là số hoá như FUNIX của TS Nguyễn Thành Nam ở FPT. Mô hình đại học này không hề có giới hạn về không gian nên lượng sinh viên học tập sẽ cao lên rất nhiều và có thể lên tới hàng triệu sinh viên trên toàn cầu. Vì thế, nếu các trường đại học mà chậm chuyển đổi số thì sẽ bị giảm sức cạnh tranh.
PV: Đội ngũ giảng viên sẽ đóng vai trò quan trọng?
Trong chuyển đổi số với các trường đại học thì quan trọng nhất vẫn là đội ngũ giảng viên và hệ thống dịch vụ. Trường đại học không thể chuyển đổi số nếu như bản thân giảng viên không thay đổi năng lực.
Đương nhiên đây là câu chuyện khó bởi vì số đông giảng viên đã quen với truyền thống sẵn có và thay đổi thói quen là không hề đơn giản. Ứng dụng công nghệ là phải phục vụ cho sự tiến bộ của xã hội, phải tạo thuận lợi cho sinh viên khi ra trường. Giảng viên không thể sống trong “tháp ngà” của mình mà phải kết hợp với doanh nghiệp, nhà tuyển dụng để hình thành một hệ sinh thái chuyển đổi số. Cho nên các đại học, các giảng viên đại học cũng như hệ thống giáo dục đang đối diện với những thách thức rất lớn, đòi hỏi tốc độ thích ứng cao, năng tự học nhanh, thường xuyên và học gắn liền với thực tế để thích ứng.
Các trường đại học nên phát triển các mô hình kết hợp mới, mà mô hình của Viện Đào tạo và Tư vấn Doanh nghiệp, Trường Đại học Ngoại thương là một ví dụ. Tức là dựa trên nền tảng tri thức của nhà trường nhưng kết hợp với cộng đồng doanh nghiệp và hình thành các hình thức khác nhau để kết nối giảng viên, sinh viên với doanh nghiệp để cùng học hỏi lẫn nhau.
Thực tế có rất nhiều phương thức và chúng tôi có chương trình đưa giảng viên đến doanh nghiệp, mời doanh nghiệp vào nhà trường, xây dựng dự án chung, hình thành các trung tâm thực hành… để có những trải nghiệm thực tế giá trị cho cả thầy và trò.
Bên cạnh đó là chương trình đưa sinh viên đến thực tập ở doanh nghiệp. Và cùng doanh nghiệp hình thành các phòng thí nghiệm chung để giải quyết nhu cầu của doanh nghiệp. Tất cả các hoạt động này lại được vận hành trong môi trường thực số thì sức mạnh lan tỏa hiệu ứng mạng lưới sẽ rất lớn. Đại học nào tiên phong trong câu chuyện này thì chắc chắn sẽ có tương lai.
PV: Theo ông, các bạn trẻ học sinh, sinh viên thế hệ Gen Z ngày nay, vốn được đánh giá là rất nhạy bén với công nghệ số, cần phải làm gì để nâng cao năng lực bản thân, đáp ứng với yêu cầu của thời cuộc?
PGS TS Nguyễn Văn Minh: Thế hệ sinh viên ngày nay tuyệt đại đa số được sinh ra sau khi Việt Nam chính thức có Internet vào năm 1997. Do vậy, theo tôi có lẽ không cần bàn đến chuyện năng lực số với thế hệ sinh viên ngày nay vì công nghệ số đã có sẵn trong gien của các em.
Tuy nhiên, theo tôi thì học sinh, sinh viên không nên quá lạm dụng công nghệ trong học tập, làm giảm năng lực độc lập suy nghĩ và cảm nhận. Do đó, đã đến lúc cần nghiên cứu nghiêm túc kinh nghiệm một số nước về việc cấm sử dụng điện thoại thông minh trong các giờ học chính thức với đối tượng học sinh phổ thông.
Thời đại AI, máy móc, trí tuệ nhân tạo sẽ dần thay thế con người, cái duy nhất con người có thể làm tốt hơn máy móc – chắc chỉ còn lại là tình yêu thương. Bồi dưỡng nhân cách, tâm hồn, cảm xúc, tình yêu thương – cũng là một việc rất cần làm của hệ thống giáo dục.
Ngược lại, ngoài giờ học chính thức, khuyến khích sinh viên càng chủ động lên mạng khai thác thông tin và cần nói thêm rằng rằng Internet sẽ giúp các em có thêm không chỉ về kiến thức mà cả các mối quan hệ với các bậc thầy bên ngoài nhà trường.
Theo tôi được biết, không ít sinh viên với sự giúp đỡ của các bậc thầy đã chủ động làm đề tài vượt khỏi tầm kiến thức của các thầy cô trong trường. Đó thực sự là điều đáng mừng vì “con hơn cha, nhà có phúc”. Thực tế là ở bậc đại học thì người thầy không thuần tuý là dạy kiến thức mà là hướng dẫn sinh viên về phương pháp luận. Tôi tin rằng với môi trường số và Internet đang rất thân thiện với đông đảo sinh viên, sẽ càng có nhiều những đề tài như vậy và không có gì vui hơn đối với người thầy khi đã đào tạo ra thế hệ học trò giỏi hơn mình.
PV: Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi thú vị này!