- Ngày nay, cụm từ chuyển đổi số (CĐS) đã trở thành câu cửa miệng nhưng không phải ai cũng hiểu một cách thấu đáo. Là chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực này, theo ông, tại sao CĐS là yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay?
- CĐS là một cuộc cách mạng nền tảng về tư duy để hướng tới một hình thái tổ chức xã hội mới, nghĩa là chuyển đổi mô hình tổ chức, để thông qua những tác động của công nghệ, sự thay đổi của môi trường xã hội, và vai trò ngày càng quan trọng của dữ liệu định hình nên những mô hình giá trị mới.
Thông qua quá trình đưa số vào cốt lõi (digital to the core), là quá trình “nhúng” mọi thứ cả hữu hình lẫn vô hình, cả ý tưởng lẫn những giá trị mặc định vào Số - tồn tại thực tại mới, trong đó mọi thứ cả hữu hình lẫn vô hình, ý tưởng, lẫn mặc định đều có thể đo được (measurable), đếm được (numerical) và tính được (computable) - làm cho mọi thứ không thể đo lường được, trở nên có thể đo lường, không đếm được trở nên đếm được và không tính được trở nên tính được. Nhờ đó, dữ liệu trở thành tài nguyên, được vốn hóa thành các giá trị mặc định (chẳng hạn tín chỉ carbon).
Tiến trình CĐS được coi là yếu tố quan trọng trong sự phát triển của Việt Nam hiện nay, bởi về bản chất, nó là một phương thức phát triển mới để đưa Việt Nam vào kỷ nguyên mới - “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, hướng tới tầm cao phát triển mới dựa trên 3 yếu tố:
Một là, thích ứng hiệu quả với những hệ quả mà cuộc cách mạng kỹ thuật số đưa đến để có thể chủ động tham gia hiệu quả vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mà chúng ta không thể từ từ, không thể tụt hậu.
Hai là, là phương thức phát triển mang tính chuyển đổi mô hình tăng trưởng/phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu, tạo ra sự đột phá về giá trị dẫn đến sự đột phá về năng suất, thực hiện được mục tiêu đến 2045 đưa Việt Nam trở thành một nước có thu nhập trung bình cao.
Ba là, là cách thức quan trọng, tất yếu và bắt buộc để Việt Nam có thể hội nhập vào những trật tự toàn cầu mới về thương mại xuyên biên giới (các hiệp định thương mại/kinh tế số); về tài chính (các phương thức thanh toán quốc tế mới); và về phát triển (các thể chế mới cùng cách thức quản trị quốc gia mới).
- Vậy những chính sách và quy định nào cần được thay đổi để thúc đẩy tiến trình CĐS tại Việt Nam; đồng thời khuyến khích doanh nghiệp áp dụng công nghệ số?
- Thứ nhất không thể CĐS được khi người đứng đầu các ban, ngành, các cấp, các tổ chức, các địa phương không thực sự biết rõ, nắm chắc, hiểu đúng về CĐS. Do vậy, cần đào tạo bắt buộc, có tính hệ thống và hiệu quả đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cơ quan Nhà nước các cấp, đi cùng với việc giao trách nhiệm phụ trách công tác CĐS tại địa phương.
Thứ hai, cần phải xây dựng các lý luận nền tảng về CĐS cùng các nội dung liên quan một cách có hệ thống để làm cơ sở xây dựng các chủ trương, chính sách, các quyết sách và điều hành triển khai, thực hiện một cách có hiệu quả tiến trình CĐS. Về nội dung này, Viện Chiến lược CĐS (thuộc Hội Truyền thông số Việt Nam) đã đóng góp một nền tảng quan trọng, qua cuốn sách “Thúc đẩy tiến trình CĐS quốc gia”. Tuy nhiên, việc coi trọng lý luận, nghiên cứu và trao đổi một cách có hệ thống còn hết sức hạn chế và thậm chí vẫn còn xu hướng nghiêng về hướng bảo thủ, lạc hậu.
Thứ ba, cần xây dựng các nội dung đào tạo chính thống, chính quy và bắt buộc về CĐS cho các bộ, các cấp từ góc độ phương thức phát triển, chứ không phải là các kỹ năng, kỹ thuật về công nghệ thông tin, hay việc tuyên truyền chính sách một cách thụ động. Đồng thời với đó là gắn việc đào tạo này với việc xác định các tiêu chuẩn liên quan đến cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống.
Thứ tư, cần thay đổi các nội dung đánh giá về thành tích CĐS theo hướng từ tập trung vào các hoạt động mang tính thi đua, hình thức, sang việc nhấn mạnh vào các giải pháp, các kết quả có được về kinh tế, xã hội từ CĐS và việc đào tạo đội ngũ cán bộ hiệu quả đáp ứng yêu cầu của tiến trình CĐS.
Thứ năm, cần hợp nhất các chủ trương, đường lối, chính sách về CĐS và các lĩnh vực liên quan trong một chiến lược quốc gia - Chiến lược số. Trên cơ sở đó, tạo nên tính thống nhất về chiến lược, tính hệ thống trong các chính sách, tính đồng bộ trong các nhiệm vụ, giải pháp, và tính cộng hưởng trong việc phối hợp các chiến lược cụ thể.
Thứ sáu, cần đưa tiến trình CĐS về Ủy ban Chuyển đổi số quốc gia như một đơn vị cấp ngang bộ, liên ngành, trực thuộc Chính phủ, được tổ chức chuyên nghiệp, không phải kiêm nhiệm để lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo, điều hành tiến trình CĐS một cách thống nhất và vượt qua các vấn đề cục bộ lĩnh vực, ngành, địa phương.
- Như ông nói thì vai trò của Chính phủ trong việc thúc đẩy CĐS ở Việt Nam là cực kỳ quan trọng. Vậy vai trò đó cụ thể là gì?
- Có thể nhìn nhận Chính phủ có 4 vai trò trong việc thúc đẩy tiến trình CĐS ở Việt Nam:
Một là đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo thể chế, chính sách, và định hình chiến lược tổng thể cho tiến trình CĐS quốc gia, đảm bảo tính thống nhất, tính hệ thống, tính đồng bộ và tính cộng hưởng hiệu quả;
Hai là đóng vai trò là cơ quan điều phối các bên liên quan trong tiến trình CĐS, đảm bảo hài hòa các lợi ích, thúc đẩy các ưu tiên, kết nối hiệu quả các liên kết, và hỗ trợ phát triển.
Ba là đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện trụ cột chính phủ số thông qua việc hoàn thiện chính phủ điện tử đáp ứng các yêu cầu để tiến tới một chính phủ số, như một nhiệm vụ hoàn thiện kiến trúc thượng tầng đáp ứng các đòi hỏi mới về quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Bốn là đóng vai trò kiến thiết các chương trình cải cách hành chính, cải cách thể chế để đáp ứng hiệu quả các yêu cầu, đòi hỏi mà tiến trình CĐS đặt ra.
- Chúng ta không thể cả nước thúc đẩy tiến trình CĐS cùng lúc được, mà phải ưu tiên cái nào trước, cái nào sau. Vậy, theo ông, đâu là các lĩnh vực ưu tiên trong lộ trình?
- Có 3 lĩnh vực cần ưu tiên:
Một là cần nhận thức và gắn kết một cách chẽ giữa cải cách hành chính, cải cách thể chế với tiến trình CĐS. Cần nhận thức một cách rõ ràng rằng, cải cách hành chính, cải cách thể chế là điều kiện cần để có thể CĐS được, không cải cách hành chính, cải cách thể chế hiệu quả thì không thể CĐS được.
Hai là cần đầu tư một cách hệ thống, chuyên nghiệp cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách về CĐS và xây dựng hệ thống cán bộ chuyên trách này đủ mạnh về chất lượng, số lượng và quyền hạn.
Ba là cần có một quy hoạch tổng thể cho tiến trình CĐS từ cấp trung ương đến địa phương để đảm bảo việc thiết kế và dự toán các hạ tầng cần thiết đảm bảo cho tiến trình CĐS một năng lực và tầm nhìn trung, dài hạn, thay vì các kế hoạch như hiện nay và thiếu một sự kết nối có tính hệ thống.
- Một trong những khó khăn thực sự trong tiến trình CĐS quốc gia là ở khu vực nông thôn. Làm thế nào để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vùng nông thôn có thể tham gia vào quá trình CĐS?
- Để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vùng nông thôn tham gia vào quá trình chuyển đổi số, chúng ta nên: Thay vì tiến trình CĐS được thực hiện từ cấp địa phương (xã/phường, quận/huyện), chúng ta hướng đến việc chuyển đổi theo các hệ thống dọc (các tổ chức hội- nông dân, phụ nữ, đoàn thanh niên; các ngành - y tế, giáo dục,...). Điều này sẽ làm cho tiến trình CĐS thoát khỏi sự bó hẹp không gian vốn thiếu liên kết về dữ liệu, để có thể kết nối hiệu quả vào các hệ thống dữ liệu trục từ cấp tỉnh, ngành, trung ương một cách hiệu quả.
Tăng cường hoàn thiện công tác chuẩn hóa việc đầu tư các hệ thống CNTT cho các cấp chính quyền địa phương để đảm bảo năng lực kết nối hiệu quả với người dân và doanh nghiệp.
Gắn chặt việc thúc đẩy tiến trình CĐS với các mục tiêu kinh tế-chính trị- xã hội thay vì các chỉ tiêu thi đua mang tính thành tích, hình thức.
-Theo ông, việc thiếu hụt nguồn nhân lực số đang ảnh hưởng như thế nào đến tốc độ CĐS tại Việt Nam?
-Cần phải làm rõ khái niệm nhân lực số là gì? Điều này sẽ chỉ ra tác động và ảnh hưởng của nguồn nhân lực này.
Trong bối cảnh tiến trình CĐS, nhân lực số cần được hiểu bao gồm: (1) Các chuyên gia thiết kế giải pháp CĐS; (2) Các chuyên gia về công nghệ thông tin-truyền thông; (3) Các chuyên gia về phát triển các giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin;
Với cách tiếp cận này, điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là các chuyên gia thiết kế giải pháp CĐS. Chúng ta hầu như không có đội ngũ chuyên gia này, điều này khiến cho các giải pháp CĐS đang được triển khai về bản chất là các giải pháp CNTT-TT (ICT), các giải pháp quản trị, marcom được gắn thêm chữ “số” vào. Trong khi, đây lại là điểm trọng yếu để có được những tiến trình CĐS hiệu quả.
Các chuyên gia về CNTT-TT hiện tại đa phần tập trung vào phân khúc “thợ”, phân khúc kiến trúc và có những kiến thức chuyên sâu về khoa học máy tính, dữ liệu, giải pháp... hết sức hạn chế. Điều này cũng khiến cho tiến trình CĐS bị phụ thuộc lớn vào các nguồn cung cấp công nghệ từ bên ngoài, cả phần cứng và phần mềm về nền tảng, về cơ sở, và về các bản quyền, các quyền...
Ở phân khúc cuối cùng hiện đang phát triển rất đa dạng, tuy nhiên, đây không phải là trở ngại lớn, vì chỉ cần hiệu chỉnh và đào tạo cơ bản về CĐS đúng cách cho các đối tượng này là có thể chuyển đổi và tạo ra hiệu quả tốt.
- Nói gì thì nói, cán bộ công chức trong bộ máy Nhà nước là đối tượng cần phải nâng cao năng lực số trước tiên. Làm thế nào để nâng cao năng lực số cho đội ngũ này, thưa ông?
- Đưa năng lực số (digital competence) trở thành một yêu cầu bắt buộc, phải học, phải có chứng chỉ/chứng nhận, và phải học liên tục/cập nhật.
Cũng cần hiểu sự khác nhau giữa năng lực số (digital competence) với kỹ năng số (digital skill). Hiện tại chúng ta phần lớn nói kỹ năng chứ không phải năng lực, điều này làm lệch hướng các nội dung cần được đào tạo và phát triển.
Xin hỏi ông câu cuối cùng: Đâu là những chiến lược dài hạn mà Việt Nam cần áp dụng để trở thành quốc gia số trong khu vực?
- Cần có một tổng công trình sư cho chiến lược số quốc gia, tách biệt khỏi công tác quản lý nhà nước theo ngành như trước đây. Chỉ khi đó, việc phối hợp các ngành vào một tổng thể tiến trình quốc gia mới đảm bảo được tính thống nhất, tính hệ thống, tính đồng bộ và cộng hưởng hiệu quả.
Trên cơ sở đó, xây dựng một hệ thống tổng đồ (master plan) cho tiến trình CĐS quốc gia thống nhất, đồng bộ ở ba cấp trung ương, ban/ngành/lĩnh vực, cấp địa phương/tổ chức để xuyên suốt thành một chiến lược nhất quán, chỉnh thể, toàn thể trong một chiến lược số quốc gia.
Cuối cùng, cần tập trung nguồn lực để chuyển đổi một cách hệ thống, đồng bộ, cộng hưởng hiệu quả thay vì phân tán nguồn lực mang tính phân bổ như hiện nay.
- Xin cám ơn ông!
Kính mời độc giả đọc đặc san VietTimes Xuân Ất Tỵ 2025 với chủ đề "Chuyển đổi số và kỷ nguyên vươn mình" tại đây!