MỜI GỌI VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN TÀI

Nhìn lại các nhân tài Việt kiều về cống hiến và bài học thu hút nhân tài

Những Việt kiều ưu tú, là các nhà khoa học, chuyên gia, doanh nhân tài năng sống và làm việc ở nước ngoài, họ không thiếu tiền. Cái họ cần là một mảnh đất màu mỡ để gieo mầm sáng tạo.
GS Đặng Văn Ngữ (giữa) đang thuyết trình với Bác Hồ nhân dịp Bác thăm Trường Y - Dược và Khoa Ký sinh trùng. Ảnh Tư liệu/SKĐS

LTS: Ngày 6/7/2025, Văn phòng Trung ương Đảng thông báo chỉ đạo “nóng” của Tổng Bí thư Tô Lâm: giao Bộ Nội vụ chủ trì, trong vòng hai tháng phải trình cơ chế đãi ngộ “vượt khung” để thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước. Trước đó, tại Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm của Ban Chỉ đạo Trung ương về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, Tổng Bí thư nhấn mạnh yêu cầu xây dựng cơ chế đặc biệt cho đội ngũ “tổng công trình sư”, “kiến trúc sư trưởng” - những người giữ vai trò then chốt trong các lĩnh vực mũi nhọn như AI, bán dẫn, vật liệu mới.

Làm thế nào để các chỉ đạo của Tổng Bí thư thành hiện thực, nhằm phát triển đất nước? Tạp chí điện tử VietTimes mở diễn đàn MỜI GỌI VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN TÀI để tiếp nhận ý kiến, đề xuất chính sách hoặc chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn về việc thu hút, phát triển đội ngũ nhân tài quốc gia trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo từ quý độc giả, chuyên gia, nhà quản lý, nhà khoa học, trí thức trong và ngoài nước.

Để lời kêu gọi Tổng Bí thư Tô Lâm mời “100 trí thức Việt kiều về nước” không chỉ là khẩu hiệu mà trở thành một chuyển động thực sự, cần nhìn thẳng vào một sự thật: tiền không phải là tất cả. Những Việt kiều ưu tú, là các nhà khoa học, chuyên gia, doanh nhân tài năng sống và làm việc ở nước ngoài, họ không thiếu tiền. Cái họ cần là một mảnh đất màu mỡ để gieo mầm sáng tạo: một môi trường học thuật tự do, được tôn trọng, được tin tưởng, được trao quyền và có thể cảm nhận rõ ràng giá trị cống hiến của mình.

Lịch sử hiện đại Việt Nam đã nhiều lần chứng minh chân lý đó.

Một thế hệ “bỏ Tây về nước” vì lý tưởng dân tộc và sự trân trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Không phải đợi đến thời mở cửa, Việt Nam mới bắt đầu “trải thảm đỏ” đón nhân tài từ hải ngoại. Từ thập niên 1940, giữa lúc đất nước còn chìm trong khói lửa và nghèo đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có tầm nhìn chiến lược sâu sắc: muốn xây dựng đất nước thành công phải có đội ngũ trí thức, những người có học vấn, năng lực tư duy và khả năng tổ chức, điều hành.

Theo PGS. TS Nguyên Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (trong một lần trò chuyện với phóng viên VietTimes): “Ngay từ những năm đầu giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ý thức sâu sắc rằng độc lập dân tộc không thể tách rời sự phát triển của khoa học, giáo dục và y tế. Trong một đất nước vừa thoát khỏi xiềng xích thuộc địa, nền tảng tri thức còn mong manh, Bác đã chủ trương mời gọi trí thức Việt kiều, những người đang học tập, làm việc tại các trung tâm tri thức lớn trên thế giới, trở về để kiến thiết quốc gia. Họ không chỉ là những người tài, mà còn là những người tiên phong, sẵn sàng gác lại sự nghiệp riêng để phục vụ lý tưởng chung.

Trong số những trí thức Việt kiều đầu tiên hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, nổi bật là kỹ sư quân sự Trần Đại Nghĩa, người từng nghiên cứu tại Pháp và Đức, làm việc trong các viện nghiên cứu quốc phòng hàng đầu châu Âu. Ông từng là cộng sự của nhà bác học Marie Curie và có tương lai sáng lạn ở trời Tây. Nhưng khi gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Paris năm 1946, ông đã quyết định bỏ lại mọi thứ, cùng Bác về nước.

Bác Hồ với GS Trần Đại Nghĩa. Ảnh tư liệu

Tại chiến khu Việt Bắc, ông cùng các cộng sự nghiên cứu chế tạo vũ khí phục vụ kháng chiến. Những khẩu súng không giật SKZ, đạn pháo do chính ông thiết kế và sản xuất đã góp phần tạo lợi thế cho quân ta trong những trận đánh quan trọng. Ông chính là người đặt viên gạch đầu tiên cho ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam, một ngành then chốt trong việc giữ gìn nền độc lập non trẻ của đất nước.

Đặng Văn Ngữ là một trí thức đặc biệt, vừa là nhà khoa học, vừa là chiến sĩ. Ông từng học tập và giảng dạy tại Nhật Bản trong nhiều năm, có cơ hội phát triển sự nghiệp quốc tế vững chắc. Nhưng năm 1949, ông quyết định từ bỏ tất cả để trở về Việt Nam kháng chiến.

Ngay tại chiến khu, ông thành lập Viện nghiên cứu y học dã chiến, tập trung vào các bệnh truyền nhiễm, đặc biệt là nghiên cứu sản xuất kháng sinh penicillin bằng phương pháp thủ công. Trong điều kiện thiếu thốn, những nỗ lực của ông đã cứu sống hàng ngàn chiến sĩ và nhân dân. Sau này, ông còn đảm nhiệm vai trò lãnh đạo trong ngành y tế, trở thành biểu tượng cho sự gắn kết giữa khoa học và lòng yêu nước.

GS Đặng Văn Ngữ (giữa) đang thuyết trình với Bác Hồ nhân dịp Bác thăm Trường Y - Dược và Khoa Ký sinh trùng. Ảnh Tư liệu/SKĐS

Là một trong những trí thức Việt kiều có học vị cao nhất thời bấy giờ, Nguyễn Văn Huyên từng bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Đại học Sorbonne (Pháp), chuyên ngành dân tộc học và sử học. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông lập tức về nước tham gia công cuộc kiến thiết quốc gia.

Với cương vị Bộ trưởng Bộ Giáo dục từ năm 1946 đến 1975, dài nhất trong lịch sử ngành giáo dục, ông đặt nền móng cho hệ thống giáo dục quốc dân, từ giáo dục phổ thông đến đại học. Ông thúc đẩy xóa mù chữ, xây dựng chương trình giảng dạy phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến và độc lập dân tộc. Đóng góp của ông không chỉ là thể chế, mà còn là tầm nhìn: giáo dục phải phục vụ nhân dân và phát triển con người.

Từng du học tại Pháp và hoạt động trong phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Khánh Toàn là trí thức Việt kiều tiêu biểu trong việc kết nối khoa học- chính trị- giáo dục. Khi trở về nước theo lời mời của Bác Hồ, ông đảm nhiệm vai trò Thứ trưởng Bộ Giáo dục, rồi Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước, và cuối cùng là Chủ tịch Hội đồng Khoa học Xã hội Việt Nam.

Ông là người đặt nền móng cho hệ thống đào tạo sau đại học ở Việt Nam, đề cao việc kết hợp giữa nghiên cứu khoa học với đào tạo chuyên sâu. Vai trò của ông không chỉ ở thiết chế mà còn ở định hướng: khoa học phải phục vụ sự phát triển bền vững, khai sáng trí tuệ dân tộc.

Những trí thức như Trần Đại Nghĩa, Đặng Văn Ngữ, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Khánh Toàn… không phải là những người duy nhất, nhưng họ tiêu biểu cho một thế hệ đã “bỏ Tây về nước”, không phải vì chính sách đãi ngộ, mà vì niềm tin vào một tương lai Việt Nam độc lập, tự chủ và văn minh. Họ mang về không chỉ tri thức, mà còn là tinh thần khai phóng, ý chí phụng sự, và đạo đức của người trí thức yêu nước.

Trong thời kỳ đất nước còn gian khó, họ không đòi hỏi lương cao, nhà lớn, chức quyền, thứ mà Việt Nam khi ấy gần như không có. Điều khiến họ trở về chính là sự trân trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho trí thức, cùng với niềm tin rằng “chính quyền cách mạng” này sẽ đặt con người, đặc biệt là trí tuệ con người, làm trung tâm của sự phát triển.

Chiến lược “mở lòng” đón nhân tài của Thủ tướng Võ Văn Kiệt

Sau năm 1975, đất nước thống nhất bước vào giai đoạn tái thiết trong bối cảnh đầy gian nan: chiến tranh vừa kết thúc, nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, đất nước bị cô lập bởi cấm vận, lại còn gánh trên vai cơ chế bao cấp trì trệ. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, không ít người chọn lối suy nghĩ khép kín, dè dặt, nhưng cũng có những nhà lãnh đạo đủ tầm vóc để thấy rằng: để phục hồi và phát triển, Việt Nam không thể chỉ dựa vào tài nguyên hay cơ bắp, mà cần hơn hết là chất xám.

Thủ tướng Võ Văn Kiệt gặp gỡ các đại biểu Việt kiều nhân kỷ niệm 18 năm Ngày giải phóng miền Nam 30/4/1993. Ảnh: SGGP

Một trong những người tiên phong, kiên định và dũng cảm nhất theo đuổi chiến lược thu hút nhân tài, không phân biệt nguồn gốc, chính là Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

Ông Vũ Quốc Tuấn, Trợ lý của Thủ tướng Võ Văn Kiệt từ năm 1985 đến 1994, thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải có lần kể:

“Ngay từ thời kỳ làm Chủ tịch rồi Bí thư Thành ủy TP.HCM, ông Võ Văn Kiệt đã sớm nhận ra bài toán then chốt của công cuộc kiến thiết sau chiến tranh: nếu không sử dụng được người giỏi, không tạo môi trường cho tài năng phát huy, thì đất nước sẽ tụt hậu mãi. Chính vì vậy, ông đã chủ trương “không phân biệt lý lịch” trong sử dụng cán bộ, một tư tưởng lúc bấy giờ được xem là rất táo bạo.

Ông sẵn sàng trao cơ hội cho những trí thức từng làm việc dưới chế độ cũ, nếu họ có tài và thật lòng muốn đóng góp cho đất nước. Một ví dụ điển hình là ông Nguyễn Văn Hảo, nguyên Phó Thủ tướng trong chính quyền Sài Gòn, người có học vị cao và kinh nghiệm quản lý vĩ mô. Sau năm 1975, bất chấp nhiều định kiến, ông Võ Văn Kiệt vẫn mời ông Hảo từ Pháp về làm cố vấn kinh tế, góp phần hoạch định những chính sách bước đầu để khắc phục hậu quả chiến tranh và ổn định đời sống dân sinh.

Một trường hợp khác là ông Nguyễn Xuân Oánh, Tiến sĩ kinh tế tại Đại học Harvard. Trong chính quyền Việt Nam cộng hòa, Ông từng là Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, đến giữa năm 1963 được đề bạt làm Phó Thủ tướng Chính phủ, hai lần được cử làm quyền Thủ tướng Chính phủ. Ông từ chối sự bảo lãnh của Mỹ sang Mỹ định cư để ở lại Việt Nam. Ông từng được mời làm cố vấn kinh tế cho Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt.

Ông đã tham mưu hàng loạt chính sách giúp chặn đứng lạm phát, bình ổn kinh tế Việt Nam giai đoạn 1989- 1990. Sau khi chuyển đổi từ bao cấp sang cơ chế thị trường, kinh tế Việt Nam lạm phát phi mã. Từ năm 1986, lạm phát tăng lên 300%, rồi 400%, rồi 500%. Trong khi đó, lãi suất cho vay của ngân hàng lại quá thấp do bị nhà nước khống chế.

Ông góp phần đặt nền móng cho công cuộc đổi mới, đặc biệt trong các cải cách tài chính- tiền tệ. Quan điểm của ông Võ Văn Kiệt rất rõ ràng: “Đừng hỏi quá khứ họ là ai, hãy nhìn họ đang làm gì hôm nay.”

Những nguyên tắc “mở lòng” ấy tiếp tục được cụ thể hóa mạnh mẽ khi ông Võ Văn Kiệt làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Thủ tướng Chính phủ trong thập niên 1990. Dưới thời ông, chính sách “mở cửa” không chỉ về kinh tế mà còn về con người được thúc đẩy. Lần đầu tiên sau năm 1975, các trí thức và doanh nhân Việt kiều được khuyến khích trở về, đóng góp cho quê hương.

Đáng chú ý có Giáo sư Trần Văn Thọ, chuyên gia kinh tế Việt kiều Nhật, người từng là thành viên trong Tổ tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt từ năm 1993. Ông Thọ không chỉ đưa ra nhiều khuyến nghị cải cách hành chính, mà còn thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam vào khu vực châu Á- Thái Bình Dương, góp phần tạo dựng cơ sở cho các hiệp định thương mại về sau.

Một Việt kiều khác là bác sĩ Trần Đông A, từng học và làm việc tại Pháp, về nước theo lời mời và đã thực hiện ca phẫu thuật tách cặp song sinh Việt- Đức năm 1988, một biểu tượng của y học và tinh thần nhân đạo Việt Nam thời kỳ hậu chiến. Chính sách “mở lòng” của ông Kiệt đã tạo điều kiện cho những người như bác sĩ Trần Đông A có thể phát huy tài năng trên đất mẹ, thay vì phải sống và làm việc xa Tổ quốc”.

Tư duy đột phá của ông Võ Văn Kiệt thể hiện ở chỗ: ông không nhìn con người qua quá khứ chính trị, mà đánh giá họ qua năng lực, tâm huyết và việc làm cụ thể. Chính sự bao dung và quyết đoán ấy đã mở đường cho nhiều nhân tài Việt kiều trở về, đồng hành cùng công cuộc đổi mới.

Trí thức Việt kiều vẫn không thôi đau đáu với quê hương

Gần nửa thế kỷ sau ngày đất nước thống nhất, Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Kinh tế phát triển năng động, hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế địa chính trị- kinh tế ngày càng được khẳng định. Trong bối cảnh ấy, việc thu hút chất xám từ cộng đồng người Việt ở nước ngoài trở thành một chiến lược sống còn để bắt kịp với thời đại trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số và kinh tế sáng tạo.

Thế nhưng, dù có nhiều chính sách “trải thảm đỏ”, từ Đề án 165 đưa cán bộ đi đào tạo nước ngoài, đến Đề án 599 hỗ trợ học bổng tiến sĩ cho du học sinh ưu tú quay về phục vụ, bài toán nhân tài Việt kiều vẫn chưa có lời giải căn cơ. Nhiều trí thức về nước trong các chuyến công tác ngắn ngày, đóng góp những bài giảng, hội thảo, tư vấn chính sách, nhưng rất ít người có thể ở lại lâu dài. Một số đã từng về nước làm việc nhưng rồi lại lặng lẽ ra đi.

Tuy nhiên, trong bối cảnh ấy, vẫn có những người chọn ở lại, chọn cống hiến, bằng tất cả tâm huyết và trí tuệ của mình.

GS Vinh từng nói ông là người Mỹ gốc Việt. Nếu chỉ vì tiền bạc, ông sẽ không về Việt Nam làm việc.

Giáo sư Hà Tôn Vinh, từng là trợ lý đặc biệt của Nhà Trắng từ nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Ronald Wilson Reagan, Tổng thống thứ 40 của Hoa Kỳ (từ năm 1981 đến năm 1989).

Ông có hơn 30 năm kinh nghiệm hoạt động và làm việc tại vùng Châu Á- Thái Bình Dương, Châu Âu, Tây Phi trong lĩnh vực phát triển chiến lược kinh tế; quản lý, cải tổ và sát nhập doanh nghiệp; tài chính dự án song phương và đa phương; tài chính ngân hàng, v.v.

GS Vinh từng bảo với tôi: “Tôi là người Mỹ gốc Việt. Nếu chỉ vì tiền bạc, tôi không về Việt Nam làm việc. Tôi từng làm tư vấn và đi hơn 70 nước khác nhau trên thế giới. Tôi từng làm cho Philippines, có thư ký riêng, có xe riêng, đi đâu có xe cảnh sát “còi hụ” dẫn đường.

Nhưng tôi về Việt Nam, bởi tôi yêu Việt Nam, đất nước, con người Việt Nam, đấy là quê hương tôi. Đi đâu tôi cũng tự hào và nói tôi là người Việt Nam. Nói thế không phải là để khoe khoang mà chỉ muốn nhấn mạnh một điều, đã là người Việt Nam, hay có nguồn gốc là người Việt Nam thì ai cũng mong muốn làm cho đất nước mình giàu đẹp”.

Ông trở về Việt Nam và tham gia sâu vào các chương trình đào tạo giảng viên đại học, cải cách hành chính công, và tư vấn chính sách. Ông tổ chức các lớp học khai phóng, nhấn mạnh triết lý “giáo dục phải tạo ra con người tự do”. Với ông, “nếu không chia sẻ tri thức, đất nước sẽ không bao giờ tiến lên”.

Giáo sư Đặng Lương Mô, sau khi nghỉ hưu từ Đại học Tokyo (Nhật Bản), đã không nghỉ ngơi như nhiều người. Ông về nước thường xuyên, góp phần đào tạo các thế hệ kỹ sư điện, điện tử, xây dựng phòng thí nghiệm vi mạch đầu tiên tại Đại học Quốc gia TP.HCM, nền móng cho ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam. Nhờ ông và các đồng sự, lĩnh vực vi mạch tích hợp đã có bước phát triển vượt bậc, vươn tầm quốc tế.

GS Trương Nguyện Thành, từng là Phó hiệu trưởng Đại học Utah (Mỹ), đã tạo nên làn sóng đổi mới giáo dục khi về nước làm Phó hiệu trưởng Đại học Hoa Sen. Ông là người đầu tiên đề xuất mô hình “đại học sáng tạo”, đưa khái niệm “tư duy khởi nghiệp” và “năng lực tự học” vào chương trình đào tạo. Mặc dù từng bị từ chối bổ nhiệm hiệu trưởng do “thiếu bằng đại học trong nước”, ông vẫn không ngừng truyền cảm hứng cho cộng đồng giáo dục Việt.

Tiến sĩ Giáp Văn Dương, tốt nghiệp tiến sĩ Hóa học tại Đại học Louvain (Bỉ), là người tiên phong xây dựng hệ sinh thái giáo dục khai phóng với mô hình “Dạy học Giản Ơi” và “GiapSchool”. Anh truyền cảm hứng về giáo dục không nhồi nhét, đề cao giá trị tự học và phát triển tư duy phản biện cho học sinh Việt Nam.

Giáo sư Vũ Hà Văn, từ vị trí giáo sư Toán tại Đại học Yale, đã về nước giữ vai trò Giám đốc Khoa học của Viện Nghiên cứu Dữ liệu lớn (VinBigData). Tại đây, ông không chỉ dẫn dắt các dự án nghiên cứu lớn về trí tuệ nhân tạo, y sinh và dữ liệu lớn, mà còn tham gia đào tạo và cố vấn cho thế hệ trẻ đam mê toán học và khoa học dữ liệu. Sự trở về của ông đã tạo ra một biểu tượng cho việc kết nối tri thức toàn cầu với các bài toán Việt Nam.

Điểm chung của những người này là gì? Không ai vì tiền. Không ai trở về vì danh. Họ trở về vì lý tưởng phụng sự, vì mong muốn được “làm cái gì đó có ích”, được xây, được truyền lửa, được thấy đất nước thay đổi nhờ vào chính tri thức của mình.

Một yếu tố không thể bỏ qua: họ chọn ở lại vì có những không gian, tổ chức cho phép họ được tự do phát triển ý tưởng, được tôn trọng năng lực, được trao quyền tự chủ trong công việc, dù còn ít ỏi. Chính sự ghi nhận này, chứ không phải những lời mời chung chung, mới khiến họ gắn bó lâu dài.

Việt Nam chúng ta không thiếu người giỏi, mà thiếu môi trường để người giỏi thấy họ được cần đến.

Quê hương cần là “mảnh đất màu mỡ” để Việt kiều thể hiện khát vọng

Một mảnh đất màu mỡ cho nhân tài nảy mầm không thể chỉ là lương bổng hay danh hiệu. Đó phải là một hệ sinh thái trí tuệ, nơi hội tụ những điều kiện sau:

Một là Môi trường học thuật tự do: Người tài cần được phản biện, được thử nghiệm cái mới mà không sợ bị chụp mũ hay cấm đoán. Mọi ý tưởng phải được đánh giá dựa trên giá trị học thuật và đóng góp thực tế, không phải trên lý lịch hay mối quan hệ.

Hai là Hệ thống đánh giá minh bạch, dựa trên năng lực: Không ai muốn sống trong một môi trường nơi công lao bị phủ nhận, năng lực bị nghi ngờ, và thành tích bị quy đổi theo tiêu chuẩn hành chính.

Ba là Cơ chế hành chính tinh gọn, linh hoạt: Một giáo sư không thể dành 60% thời gian làm báo cáo, đi họp hành và xin giấy tờ. Nhân tài cần thời gian để tư duy, giảng dạy, nghiên cứu và truyền cảm hứng.

Bốn là Sự trân trọng từ xã hội và nhà nước: Không ai có thể sáng tạo trong một xã hội nghi ngờ người giỏi, đố kỵ với thành công, hoặc luôn hỏi “ông này có phe phái gì mà được ưu ái thế?”

Và, cuối cùng là Niềm tin vào tương lai đất nước: Người trí thức cần cảm thấy rằng mình đang góp phần vào một tiến trình tích cực. Khi họ tin rằng Việt Nam có thể trở thành quốc gia hùng cường, họ sẽ sẵn sàng từ bỏ cả sự nghiệp ở nước ngoài để góp sức.

Nhìn rộng ra thế giới thì thấy, Trung Quốc đã thực hiện thành công chương trình “Ngàn nhân tài” (Thousand Talents Plan), đưa hàng chục nghìn nhà khoa học Hoa kiều về nước nhờ kết hợp chính sách đãi ngộ cao với môi trường nghiên cứu tự do hơn, và đặc biệt là trao quyền tự chủ cho các viện nghiên cứu trọng điểm.

Hàn Quốc xây dựng hệ thống “Brain Korea” để đưa các tiến sĩ du học về nước, hỗ trợ kinh phí nghiên cứu, tạo vị thế trong hệ thống đại học, đồng thời giao họ vai trò xây dựng chính sách quốc gia.

Singapore thì chủ trương thu hút nhân tài gốc Hoa toàn cầu về nước bằng chiến lược “Talent Hub”, không chỉ trả lương cao mà còn đưa họ vào hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, nơi các ý tưởng được hiện thực hóa thành sản phẩm thực tế, có giá trị xã hội.

Việt Nam chúng ta không thiếu người giỏi, mà thiếu môi trường để người giỏi thấy họ được cần đến. Muốn có một thế hệ “Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Văn Hảo” thời đại mới, thì điều chúng ta cần gieo không chỉ là lời mời gọi, mà là niềm tin, sự trân trọng và một hệ sinh thái sáng tạo đúng nghĩa.

Việt Nam sẽ không thể bước vào kỷ nguyên trí tuệ nếu tiếp tục đánh mất những hạt giống quý giá chỉ vì mảnh đất chưa sẵn sàng để chúng nảy mầm.

Lời mời góp ý với Diễn đàn “CHỌN VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN TÀI”

Tạp chí điện tử VietTimes trân trọng mời quý độc giả, chuyên gia, nhà quản lý, nhà khoa học, trí thức trong và ngoài nước gửi ý kiến, đề xuất chính sách hoặc chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn nhằm góp phần hiện thực hóa các chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về việc thu hút, phát triển đội ngũ nhân tài quốc gia trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

📩 Vui lòng gửi bài viết và ý kiến về diễn đàn “MỜI GỌI VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN TÀI” theo địa chỉ: toasoan@viettimes.vn