
Kỹ thuật mới từ nghiên cứu khoa học
Sau một tuần phẫu thuật khối u ở não, anh N.V.V (Hà Nội) đã ra viện, khoẻ mạnh, ăn ngủ tốt và đi lại nhẹ nhàng. Vết mổ trên cung mày của anh rất nhỏ, khó phát hiện. “Hàng xóm đến chơi không ai nghĩ chồng tôi vừa trải qua ca mổ khối u to khoảng 3 cm trong não” - chị M, vợ anh V. cho biết.
Anh V. là 2 bệnh nhân vừa được các bác sĩ Bệnh viện (BV) Hữu nghị Việt Đức phẫu thuật bằng phương pháp nội soi qua đường rạch nhỏ trên cung mày, cắt bỏ khối u ở tầng trước nền sọ.
Trao đổi với VietTimes, PGS.TS Đồng Văn Hệ cho biết kỹ thuật này là một bước tiến trong mổ sọ não. Trước đây, để can thiệp các tổn thương nền sọ, bác sĩ thường phải mở rộng hộp sọ và sử dụng kính hiển vi. Tuy nhiên, phương pháp này không khả thi với những khối u có vị trí khó tiếp cận.
Vì mổ nội soi là không gian hai chiều, việc phẫu thuật sẽ khó khăn hơn, đòi hỏi tay nghề cao và sự chính xác tuyệt đối. Nhưng kỹ thuật này mang lại nhiều ưu điểm. Thay vì rạch đường 20-25cm để mở hộp sọ, bác sĩ chỉ cần rạch một đường nhỏ chừng 2-2,5cm ở cung mày, đưa ống nội soi vào để hỗ trợ nguồn sáng, quan sát tổn thương và tiến hành cắt bỏ khối u một cách chính xác.
Kỹ thuật này cho phép cắt hết khối u và giữ được các mô lành của bệnh nhân, đảm bảo phục hồi tốt nhất.
Trong tuần qua, BV Hữu nghị Việt Đức đã thực hiện thành công hai ca phẫu thuật cắt u màng não ở tầng trước nền sọ bằng kỹ thuật này. Cả hai bệnh nhân đều có khối u nằm ngay trên trần hố mắt, vị trí khá hiểm.
“Nếu không cắt bỏ sớm, khi khối u lớn hơn, sẽ chèn vào dây thị giác gây mờ mắt, chèn các dây thần kinh đặc biệt có thể gây liệt”- ông Hệ cho biết.
Theo PGS Hệ, trước đó, từ năm 2005, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đã áp dụng kỹ thuật này nhưng sử dụng kính hiển vi. Gần đây, các bác sĩ mới thử nghiệm kết hợp nội soi trong một số công đoạn mổ. Lần này, toàn bộ quá trình phẫu thuật được bác sĩ thực hiện bằng nội soi.

Mở ra cơ hội cho nhiều bệnh nhân
Theo ông Hệ, kỹ thuật này có thể áp dụng với nhiều bệnh vì ưu điểm vượt trội: Ống nội soi tiếp cận trực tiếp vị trí tổn thương với các góc nhìn linh hoạt (0 độ, 30 độ, 45 độ), giúp phẫu thuật viên quan sát rõ ràng toàn bộ vùng tổn thương mà không cần tác động nhiều vào nhu mô não.
Kỹ thuật này cũng giảm thiểu tối đa nguy cơ biến chứng, tổn thương các dây thần kinh quan trọng như thần kinh thị giác, thần kinh khứu giác; không cần vén rộng tổ chức não, giảm tỷ lệ tổn thương mô lành. Hệ thống ánh sáng nội soi giúp phẫu thuật viên quan sát tốt hơn so với kính hiển vi truyền thống, cho phép đánh giá chính xác ranh giới giữa khối u và mô lành.

Đặc biệt, thời gian phục hồi nhanh hơn, bệnh nhân có thể xuất viện sớm và trở lại cuộc sống bình thường trong thời gian ngắn, chi phí cũng giảm so với kỹ thuật truyền thống.
Đây cũng là kỹ thuật lần đầu tiên tại được thực hiện thành công tại Việt Nam.
Kỹ thuật được thực hiện thành công mở ra hướng đi mới trong phẫu thuật thần kinh ít xâm lấn, giúp việc điều trị an toàn và hiệu quả hơn, bệnh nhân sẽ không phải ra nước ngoài như trước.
Theo PGS.TS Đồng Văn Hệ, đây là kỹ thuật thuộc đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước về phẫu thuật thần kinh ít xâm lấn, nhằm cải tiến phương pháp điều trị, hạn chế tối đa xâm lấn và rủi ro cho bệnh nhân.
Phẫu thuật nội soi trong lĩnh vực thần kinh và sọ não phát triển muộn hơn so với các chuyên ngành khác, như nội soi ngực, ổ bụng, gối hay khớp. Tại Việt Nam, kỹ thuật nội soi thần kinh bắt đầu từ năm 2003 với các can thiệp đơn giản như điều trị não úng thủy, sau đó dần mở rộng sang các kỹ thuật phức tạp hơn, đặc biệt là phẫu thuật nội soi nền sọ qua đường mũi.
Đây là một trong những hướng đi quan trọng trong nghiên cứu khoa học của PGS.TS Đồng Văn Hệ, tập trung vào ứng dụng nội soi trong điều trị các bệnh thần kinh.

Giám đốc BV Việt Đức nghiêm cấm từ chối bệnh nhân dịp Tết Ất Tỵ 2025, trái tuyến vẫn xử lý

Phó Giám đốc BV Việt Đức Đồng Văn Hệ kiêm chức Giám đốc Trung tâm Điều phối tạng Quốc gia
