Giải mã khủng hoảng truyền thông Mỹ: Một góc nhìn khác

VietTimes -- Không có một quốc gia nào trên thế giới có tần suất sự cố truyền thông nhiều như Mỹ. Khủng hoảng truyền thông thường xuyên làm người Mỹ cũng quen như “chuyện bình thường” (new normal). Đó là một đặc thù kiểu Mỹ không nên nhầm lẫn, làm cho nước Mỹ hấp dẫn và mạnh.
Không có một quốc gia nào trên thế giới có tần suất sự cố truyền thông nhiều như Mỹ.

Những quả bom truyền thông

Tu chính án Thứ nhất (the First Amendment) về tự do báo chí là một trụ cột của sức mạnh Mỹ (đang bị Trump thách thức). Đối với nhiều người, thật khó phân biệt khi nào khủng hoảng truyền thông biến thành khủng hoảng chính trị, hay khủng hoảng hiến pháp.

Có lẽ bóng ma Watergate không bao giờ chết, và Tu chính án Thứ 25 là một răn đe đối với bất kỳ Tổng thống nào không muốn làm theo luật chơi này. Đó là nghịch lý của hệ thống chính trị đã làm cho nước Mỹ trở thành độc đáo (exceptionalism), nhưng cũng dễ tổn thương.

Vừa qua có hai sự cố truyền thông lớn làm rung động chính quyền Donald Trump, trong khi cuộc điều tra của Robert Mueller vẫn như “thanh gươm Damocles” đang treo lơ lửng trên đầu tổng thống. Thứ nhất là bài báo nặc danh (anonymous op-ed) đăng trên báo New York Times (5/8/2018) mà tác giả là “một quan chức cao cấp của chính quyền” (a senior administration official) cùng một nhóm phản kháng ngầm chống đối Trump.

Tuy hiện tượng “rò rỉ thông tin” (leaking) là chuyện thường xuyên trong Nhà Trắng, nhưng sự kiện đầy kịch tính này đang làm cho các quan chức Nhà Trắng đau đầu đối phó, như phải dập một đám cháy lớn. Tuy các quan chức hàng đầu Nhà trắng đã lên tiếng phủ nhận (là “không phải tôi”), và Trump đã yêu cầu Bô trưởng Tư pháp phải điều tra, nhưng sau một tuần vẫn chưa biết ai là thủ phạm viết bài đó. 

Sự kiện thứ hai là cuốn sách mới của nhà báo Bob Woodward (“Fear: Trump in the White House, Simon & Schuster”, September 11, 2018) như một quả bom truyền thông. Cuốn sách này được công bố chỉ một ngày sau sự kiện bài báo nặc danh trên New York Times. Sự trùng hợp về thời điểm, cũng như nội dung câu chuyện được kể lại làm cho đám cháy và quả bom này tai hại hơn nhiều đối với ông Trump (khi cuộc bầu cử giữa kỳ đang tới gần).

Cách đây không lâu, có mấy sự cố truyền thông khác cũng làm dư luận xôn xao. Đó là cuốn sách của nhà báo Michael Wolff (“Fire and Fury”, Holt, January 5, 2018), và cuốn sách của Omarosa Manigault là một trợ lý Nhà Trắng bị sa thải, (“Unhinged: An Insider's Account of the Trump’s White House”, Simon & Schuster, August 14, 2018). Nhưng so với hai sự cố truyền thông đó, quả bom Woodward có sức công phá lớn hơn nhiều, như một quả “bom tấn” (blockbuster). 

Tuy Trump nổi tiếng nhưng ông cũng hay dùng những từ ngữ thô thiển để thóa mạ những người mà ông không thích, thậm chí cả phụ nữ.  

Bob Woodward là nhà báo kỳ cựu của Washington Post, không phải là tác giả bình thường mà là một tên tuổi lớn của báo chí Mỹ mà các Tổng thống đều biết tiếng (và e ngại). Ông là tác giả của 18 cuốn sách viết về các đời Tổng thống Mỹ, từ thời Richard Nixon (và bi kịch Watergate), trong đó có 12 cuốn được xếp hạng “bán chạy nhất toàn quốc” (number one national best seller).

Woodward giành được 2 giải Pulitzer (một thành tích hiếm có đối với các nhà báo). Woodward nổi tiếng không phải chỉ vì viết nhiều về các nhân vật cung đình, mà còn do uy tín và tiếng tăm. Woodward thường cẩn trọng kiểm tra lại các nguồn được trích, và trong cuốn sách mới ông đã trích dẫn theo cách gián tiếp (mà ông gọi là “deep background”). 

Tuy hãy còn quá sớm để đánh giá hệ quả của các sự cố truyền thông nói trên, nhưng có thể hình dung rằng nước Mỹ đang trải qua một cuộc khủng hoảng truyền thông, gắn liền với một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, đụng chạm đến những vấn đề cơ bản của thể chế chính trị.

Có lẽ đây là vấn đề toàn cầu chứ không riêng nước Mỹ, nhưng nó được bộc lộ rõ hơn ở Mỹ. Những giá trị cơ bản của dân chủ tự do (liberal democracy) và tự do ngôn luận (freedom of speech) đang bị thách thức. Không phải ngẫu nhiên mà Trump tỏ ra thù địch với báo chí, thường gọi báo chí là “tin vịt” (fake news) và gọi các nhà báo là “kẻ thù của nhân dân” (enemy of the people). Không phải chỉ tự do ngôn luận, mà “chính trị bản sắc” (identity politics) cũng bị thách thức, phản ánh xu hướng bảo thủ mới (neo-conservatism) và dân túy (populism).

Một nước Mỹ bị chia rẽ

Trong bối cảnh đó, cuộc bầu cử giữa kỳ sắp tới (11/2018) có ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất, nó định vị lại tâm trạng và thái độ của cử tri Mỹ đối với ông Trump mà họ đã bỏ phiếu ủng hộ cách đây gần hai năm, và dự báo xu hướng chính trị hai năm tới khi cử tri Mỹ bầu lại Tổng thống.

Thứ hai, nó xác lập lại cán cân chính trị giữa hai đảng Cộng hòa và Dân chủ trong Quốc hội. Trump dễ sa vào một cuộc khủng hoảng chính trị và hiến pháp, nếu phe Dân chủ chiếm được đa số, và nếu điều tra của Robert Mueller khẳng định sự dính líu của Trump với người Nga trong tranh cử năm 2016, mở ra khả năng phế truất (theo Tu chính án Thứ 25). 

Ngày 16/8/2018, có 343 tờ báo khắp nước Mỹ đã hưởng ứng lời kêu gọi của báo Boston Globe, cùng đăng xã luận để phản đối “cuộc chiến” của Trump chống lại tự do báo chí. Tuy có rất nhiều báo tham gia, trong đó có những báo lớn như New York Times, nhưng cũng còn nhiều báo khác không tham gia (như Wall Street Journal).

Không phải chỉ nước Mỹ bị chia rẽ mà báo chí Mỹ cũng đang bị phân hóa. Có lẽ đó là “hệ quả không định trước” của bầu cử Tổng thống Mỹ vào năm 2016 như một sự kiện chính trị chia rẽ nước Mỹ chưa từng có, làm nhiều người gọi nước Mỹ là “the Divided States of America”. 

Trong bài xã luận với tiêu đề “Báo chí Tự do cần các bạn”, báo New York Times viết rằng gọi sự thật mà mình không thích là “tin vịt” (fake news) “là nguy hiểm cho dòng chảy của dân chủ” (dangerous to the lifeblood of democracy), và gọi báo chí là “kẻ thù của nhân dân” là nguy hiểm cho các nhà báo.

Khi gặp riêng Tổng thống Trump (tháng 7/2018), ông AG. Sulzberger (Chủ báo New York Times) đã nói “ngôn từ của Tổng thống đang góp phần làm tăng nguy cơ đối với các nhà báo, và dẫn đến bạo lực”. Tuy Trump nổi tiếng hay nói bất nhất, nhưng ông cũng hay dùng những từ ngữ thô thiển để thóa mạ những người mà ông không thích, thậm chí cả phụ nữ...

Theo kết quả khảo sát dư luận của đại học Quinnipiac University, trong khi “51% cử tri đảng Cộng hòa cho rằng báo chí là “kẻ thù của nhân dân”, thì 65% cử tri nói chung cho rằng báo chí là một phần quan trọng của nền dân chủ. Một khảo sát khác trong tháng này cũng có kết quả tương tự: 48% cử tri đảng Cộng hòa cho rằng báo chí là “kẻ thù của nhân dân Mỹ”, và 28% bất đồng. Trong khi đó, 23% những người ủng hộ đảng Cộng hòa (và 1/8 người Mỹ nói chung) cho rằng Trump nên đóng cửa CNN, Washington Post và New York Times.

Muốn hiểu và lý giải được những biến đổi chính trị đang diễn ra tại Mỹ và trên thế giới, người ta cần đổi mới tư duy và hệ quy chiếu (paradigm).

Đổi mới tư duy và hệ quy chiếu

Đó là vắn tắt mấy nét (hơi tiêu cực) về bức tranh chính trị nội bộ của Mỹ vào thời điểm này, trong khi bức tranh kinh tế và chính trị quốc tế của chính quyền Trump có vẻ sáng sủa và tích cực hơn, nhất là về triển vọng chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, đã bước vào giai đoạn hai (từ 6/9/2018). Thành tích đối ngoại của Trump (với Triều Tiên chẳng hạn) cũng không thể phủ nhận.

Trong số các tổng thống Mỹ còn sống, chỉ có Donald Trump dám đối đầu với Trung Quốc. Nhưng các thực tế đó có thể bị hình ảnh tiêu cực trong nước làm lu mờ và méo mó. Đó là những khác biệt dễ nhầm lẫn, cũng như tính cách bất thường, khó đoán của ông Trump. 

Vì vậy, đánh giá về Donald Trump là một việc khó, dễ ngộ nhận và nhầm lẫn. Gần đây, quan điểm đánh giá về Trump có sự phân hóa theo hướng hơi võ đoán (như “thầy bói sờ voi”). Một số người chỉ trích Trump thậm tệ (bất chấp những thành tích khó phủ nhận), trong khi một số khác khen ông hết lời (bất chấp những bê bối cũng khó phủ nhận). Không phải chỉ có Trump (hay Trumpism) có vấn đề, mà cả những người ủng hộ hay phản đối Trump cũng vậy, vì thế giới này không chỉ có sự thật, mà còn có nửa sự thật (half-truth), hay “hậu sự thật” (post-truth).

Muốn hiểu và lý giải được những biến đổi chính trị đang diễn ra tại Mỹ và trên thế giới với những ẩn số và biến số khó lường (giống như biến đổi khí hậu hiện nay), người ta cần đổi mới tư duy và hệ quy chiếu (paradigm).

Nếu muốn hướng tới thế giới công nghệ 4.0 mà vẫn bám giữ vào hằng số tư tưởng 0.4 của thế giới cũ, người ta sẽ tiếp tục mắc kẹt vào tư duy nguyên trạng (status quo mindset) của trật tự thế giới cũ (như tù binh của quá khứ), và lạc trong ma trận của trật tự thế giới mới vẫn chưa định hình, nên càng dễ ngộ nhận và nhầm lẫn. Không chỉ Mỹ và trật tự thế giới đang bị đảo điên, mà tư duy con người cũng đang bị khủng hoảng.

Theo Facebook Nguyễn Quang Dy