Doanh thu phần mềm và dịch vụ CNTT tăng gấp rưỡi sau 5 năm

Doanh thu ngành phần mềm và dịch vụ công nghệ thông tin (CNTT) của Việt Nam đã tăng gấp rưỡi trong 5 năm qua, từ 2 tỉ đô la Mỹ vào năm 2010 lên trên 3 tỉ đô la Mỹ năm 2015, theo Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ công nghệ thông tin Việt Nam (Vinasa).
Một doanh nghiệp ngành phần mềm. Ảnh: Vân Ly
Một doanh nghiệp ngành phần mềm. Ảnh: Vân Ly

Trong một báo cáo vừa được công bố ngày hôm qua, 24-4, Vinasa cho biết doanh thu ngành phần mềm đã tăng từ 1,06 tỉ đô la Mỹ năm 2010 lên khoảng 1,6 tỉ đô la Mỹ, còn doanh thu mảng dịch vụ nội dung số năm 2015 cũng đạt trên 1,6 tỉ đô la Mỹ (năm 2010 dịch vụ này chưa phát triển mạnh).

Vinasa cũng cho biết năng suất và giá trị sản lượng lao động trong ngành phần mềm và dịch vụ CNTT của Việt Nam cũng cao hơn các ngành kinh tế khác trong nước từ 3 đến 10 lần, trong đó, tỉ lệ  hàm lượng giá trị Việt Nam trong doanh thu của ngành rất cao, đạt tới 90 - 95%.

Ông Trương Gia Bình, Chủ tịch Vinasa, đánh giá trong giai đoạn 5 năm vừa qua, sự suy giảm chung của kinh tế thế giới và khó khăn kinh tế trong nước đã khiến ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam có sụt giảm nhiều về tốc độ tăng trưởng nhưng vẫn duy trì được ở  ở mức 10-15%/năm. Đây là một ngành luôn phát triển nhanh gấp 2 - 3 lần tỉ lệ tăng trưởng GDP chung của toàn nền kinh tế.

Từ năm 2011 - 2015, nguồn nhân lực ngành công nghiệp phần mềm và nội dung số tăng trưởng trung bình khoảng 10%/năm. Đội ngũ doanh nghiệp phần mềm và dịch vụ CNTT đã có sự lớn mạnh cả về số lượng, quy mô, trình độ công nghệ cũng như về quản trị doanh nghiệp. Bên cạnh những công ty lớn có quy mô trên 1.000 lao động tiếp tục duy trì sự phát triển tốt như FPT, VTC, TMA, VNG, đã xuất hiện nhiều công ty mới có quy mô nhân lực đạt 200 đến 500 người như VMG, Luvina, Fujinet, KMS…

Thị trường trong nước chững lại, xuất khẩu tốt lên

Năm năm qua, tuy thị trường trong nước có sự chững lại song thị trường nước ngoài lại phát triển, đặc biệt là với thị trường Nhật. Có nhiều công ty thực hiện hợp đồng cho thị trường này tăng trưởng rất tốt, lên hơn 100 - 200 người chỉ trong 2 – 3 năm như KMS, Rikkiesoft, NTQ… Đồng thời, có những doanh nghiệp đạt mức tăng trưởng doanh thu lên tới 100%/năm.

Theo ông Bình, thị trường trong nước của ngành phần mềm và dịch vụ CNTT Việt Nam trong 5 năm qua chịu ảnh hưởng bởi những khó khăn chung của nền kinh tế, khiến cho đà tăng trưởng sụt giảm mạnh so với giai đoạn 2005 - 2010. Thị trường trong nước bị ảnh hưởng lớn nhất trong hai phân khúc chính là ứng dụng CNTT trong khu vực nhà nước và khu vực doanh nghiệp do cả hai phân khúc này đều bị cắt giảm nguồn vốn dành cho đầu tư ứng dụng CNTT.

Bên cạnh khó khăn về nguồn vốn, khu vực thị trường nhà nước còn khó khăn, vướng mắc về cơ chế chính sách trong hoạt động đầu tư mua sắm, thuê dịch vụ CNTT, gây cản trở sự phát triển của phân khúc thị trường này. Tình trạng khó khăn đã khiến một số doanh nghiệp hoạt động tại thị trường nội địa phải chuyển hướng kinh doanh, thậm chí là giải thể.

Ngược lại với thị trường trong nước, thị trường xuất khẩu của ngành phần mềm và dịch vụ CNTT Việt Nam năm năm qua đã đạt được tốc độ phát triển cao, từ 30 - 40%/ năm, do doanh nghiệp đã nỗ lực đón bắt làn sóng dịch chuyển thị trường dịch vụ gia công phần mềm của các doanh nghiệp quốc tế (đặc biệt là của Nhật Bản) từ hai trung tâm là Trung Quốc và Ấn Độ sang các nước khu vực Đông Nam Á.

Theo Vinasa, năng lực cạnh tranh quốc tế của ngành công nghiệp phần mềm và dịch vụ CNTT Việt Nam trong 5 năm qua cũng được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Năm 2014, Việt Nam nằm trong Top 10 các quốc gia hấp dẫn nhất về gia công phần mềm, theo báo cáo của Gartner. Trong các năm 2010 - 2015, TP.HCM và Hà Nội lọt vào Top 20 trong danh sách 100 điểm đến hấp dẫn nhất về gia công phần mềm thế giới, theo báo cáo của Global Services-Tholons. Từ năm 2013, Việt Nam trở thành đối tác lớn thứ hai của Nhật trong gia công ủy thác phần mềm, chỉ đứng sau Trung Quốc, theo báo cáo của cơ quan xúc tiến CNTT Nhật Bản...

Còn nhiều hạn chế

Trong báo cáo đánh giá 5 năm hoạt động, Vinasa cũng đánh giá về những tồn tại, hạn chế đã và đang cản trở sự phát triển của ngành phần mềm và dịch vụ CNTT Việt Nam. Một hạn chế lớn là đại đa số các doanh nghiệp có quy mô rất nhỏ nên không có sự tập trung về nhân lực, tài chính, năng lực công nghệ và sức cạnh tranh thấp. Do quy mô nhỏ nên phần lớn doanh nghiệp không đầu tư được cho hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D) do đó hầu như không tạo ra được các sản phẩm, dịch vụ mang tính sáng tạo, đột phá, có vị trí trên thị trường thế giới.

Bên cạnh đó, một điểm hạn chế nữa là các doanh nghiệp chưa tạo được sự liên kết ngành hiệu quả để hợp tác, chia sẻ công việc, nâng cao năng lực cạnh tranh, quy mô và thị trường ở nước ngoài cũng như để nâng cao khả năng tham gia thực hiện các dự án CNTT lớn ngay tại thị trường trong nước.

Thêm nữa, sự thiếu hụt nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng vẫn là một hạn chế lớn của ngành này. Dự tính nhu cầu nhân lực của các doanh nghiệp trong giai đoạn 2016 - 2020 là khoảng 400.000 người trong khi toàn bộ hệ thống 290 trường đại học cao đẳng và khoảng 150 cơ sở đào tạo về CNTT trong cả nước hiện chỉ có khả năng cung ứng khoảng 250.000 người. Ngoài ra chất lượng kiến thức, kỹ năng chuyên môn và trình độ ngoại ngữ của sinh viên mới ra trường rất hạn chế.

Vinasa cho rằng sự thiếu hụt nhân lực, dẫn đến tình trạng tranh  giành nhân lực giữa các doanh nghiệp làm cho tỉ lệ người lao động chuyển việc ngày càng cao, gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời làm tăng giá nhân công lao động, giảm năng lực cạnh tranh và sức hấp dẫn của ngành với nhà đầu tư.

Ngoài ra, một hạn chế cũng làm cản trở sự phát triển của ngành phần mềm và dịch vụ CNTT Việt Nam là điều kiện hạ tầng. Cả nước hiện chỉ có Khu công viên phần mềm Quang Trung tại TP.HCM là đáng kể về quy mô và sự hoàn thiện hạ tầng nhưng cũng chỉ giải quyết được nơi làm việc cho trên 100 doanh nghiệp, còn hầu hết các doanh nghiệp phần mềm và dịch vụ CNTT quy mô nhỏ và vừa nằm tản mát với điều kiện hạ tầng hạn chế do phải đi thuê trụ sở, địa điểm hoạt động phân tán…

Theo TBKTSG