
Có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ
Hôm qua TAND Cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm đã tuyên án ông Trịnh Văn Quyết, cựu Chủ tịch Tập đoàn FLC 7 năm tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và phạt tiền 4 tỷ đồng đối với tội "Thao túng thị trường chứng khoán". Trong khi, đó án sơ thẩm ông Quyết bị tuyên phạt tổng cộng 21 năm tù, trong đó 18 năm về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và 3 năm về tội "Thao túng thị trường chứng khoán".

Ông Trịnh Văn Quyết tại phiên tòa sơ thẩm. Ảnh: A.Q.
Theo hồ sơ vụ án, ông Quyết bị cơ quan tố tụng cáo buộc phạm tội thuộc ở Khoản 4, Điều 174 (tội danh "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản) với khung phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân và khoản 2, điều 211 (tội Thao túng thị trường chứng khoán) với khung hình phạt từ 2-7 năm tù.
Như vậy, mức án tòa cấp phúc thẩm đã tuyên ông Trịnh Văn Quyết đều dưới khung hình phạt áp dụng. Phán quyết này đặt ra nhiều câu hỏi về cơ sở pháp lý và ý nghĩa thực tiễn của việc tuyên án dưới khung hình phạt truy tố. Cụ thể, nhiều độc giả thắc mắc, trong trường hợp nào bị cáo sẽ được Hội đồng xét xử xem xét tuyên dưới khung hình phạt truy tố?
Giải đáp thắc mắc này, luật sư Trần Tuấn Anh, Giám đốc Công ty luật Minh Bạch, cho biết trong tố tụng hình sự, khung hình phạt là giới hạn pháp lý để Tòa án lượng hình. Tuy nhiên, pháp luật cho phép tuyên án dưới khung trong trường hợp bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ đáng kể. Đây là cơ chế nhằm đảm bảo tính nhân đạo, cá thể hóa hình phạt và khuyến khích sự ăn năn hối cải, khắc phục hậu quả.
“Theo khoản 1, Điều 54 (quy định về “Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng), Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật .
Với vụ án xảy ra tại FLC, các tình tiết bị cáo Quyết chủ động nộp lại tài sản, khắc phục toàn bộ thiệt hại, đóng góp cho an sinh xã hội, nhân thân tốt (phạm tội lần đầu, gia đình có công cách mạng) và các bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt là những yếu tố quan trọng để Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cơ chế giảm án dưới khung hình phạt bị cáo bị truy tố”, luật sư Tuấn Anh nói.
Giới hạn nào cho quyết định phạt dưới khung?
Luật sư Tuấn Anh cũng cho biết thêm điều Điều 54, Bộ luật Hình sự cũng đặt giới hạn và điều kiện cho việc quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

“Khoản 1, điều 54, Bộ luật Hình sự nêu rõ “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật”.
Điều này có nghĩa, trong trường hợp bị cáo phạm tội thuộc Khoản 4, Điều 174 (tội danh "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản") với khung phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân thì tòa án có thể tuyên án bị cáo thấp hơn mức án 12 năm nhưng không được thấp hơn mức 7 năm tù, bởi 7 năm là mức án thấp nhất quy định tại khoản 3 - khung liền kề nhẹ hơn, Điều 174 (người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở khoản 3, điều 174 sẽ bị phạt tù từ 7-15).
Trong khi khoản 2, điều 54 quy định thêm, tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.
Điều này có nghĩa, với các bị cáo được xác định không giữ vai trò chủ mưu, chỉ là đồng phạm có vai trò không đáng kể thì tòa có thể xem xét áp dụng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, và không bị hạn chế mức án như khoản 1, điều 54.
Ví dụ, bị cáo phạm tội ở khoản 4, điều 174, Bộ luật Hình sự nhưng có thể được tuyên dưới 7 năm (mức thấp nhất ở khung dưới liền kề) nếu tòa xác định phạm tội lần đầu, chỉ giữ vai trò đồng phạm và có vai trò không đáng kể. Tuy nhiên, nếu bị xác định giữ vai trò chủ mưu, hoặc đồng phạm nhưng lại giúp sức tích cực thì không được xem xét mức án thấp hơn 7 năm tù”, luật sư Tuấn Anh phân tích.
Luật sư Tuấn Anh cho rằng mỗi vụ án vẫn phải được xem xét độc lập. Mức độ giảm án không bị ràng buộc bởi giới hạn cứng, nhưng phải dựa trên đánh giá toàn bộ hồ sơ vụ án. Nếu không có căn cứ vững chắc, mức án quá thấp có thể gây phản ứng tiêu cực.
Đồng quan điểm, luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm, Ủy viên Thường vụ Trung ương Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam cho rằng pháp luật hiện hành không giới hạn số lần tuyên dưới khung, cũng không ấn định mức giảm tối đa là bao nhiêu, miễn là việc giảm này có căn cứ vững chắc, ví dụ như bị cáo đã khắc phục toàn bộ thiệt hại, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, mắc bệnh hiểm nghèo, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt", luật sư Tú nói.
Luật sư Trương Anh Tú nhìn nhận, qua theo dõi một số vụ án, ông nhận thấy xu hướng xử lý các đại án kinh tế hiện nay đang có sự chuyển dịch rõ rệt từ việc trừng trị nghiêm khắc sang khuyến khích khắc phục hậu quả và thu hồi tài sản. Ưu tiên việc khôi phục thiệt hại, bảo vệ quyền lợi cho các bên bị hại và cho Nhà nước.
"Việc này phù hợp với tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW về 'không hình sự hóa quan hệ kinh tế - dân sự thuần túy'," ông Tú phân tích. "Đồng thời, khuyến khích xem xét miễn, giảm sâu mức án khi bị cáo tự nguyện khắc phục hậu quả, thay vì chỉ tập trung vào hình phạt tù dài hạn."

Ông Tú chỉ ra rằng xu hướng này cũng thể hiện rõ qua các vụ án kinh tế lớn gần đây như Tân Hoàng Minh, Vạn Thịnh Phát và mới nhất là vụ án liên quan tới ông Trịnh Văn Quyết và FLC.
"Nếu bị cáo khắc phục hậu quả tốt, thái độ hợp tác, thành khẩn, việc giảm án sâu được cân nhắc nghiêm túc," Luật sư Trương Anh Tú nói.

Tòa phúc thẩm ra phán quyết với cựu Chủ tịch FLC Trịnh Văn Quyết

FLC sắp họp bất thường về thay đổi nhân sự cấp cao
