Cách thức để Viettel, MISA tạo ra sản phẩm công nghệ số Make in Viet Nam

Đối với Viettel, MISA và nhiều doanh nghiệp công nghệ số khác, công thức tăng trưởng của đều là đầu tư mạnh cho R&D, tối ưu nguồn lực, tạo ra doanh thu và lợi nhuận gia tăng.
Hoạt động nghiên cứu và phát triển của các doanh nghiệp công nghệ số đóng góp lớn vào sự phát triển của nền kinh tế số quốc gia.

Doanh thu ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam ước đạt 3,9 triệu tỷ đồng (khoảng 151,86 tỷ USD), tăng 11,2% so với năm 2023. Các chuyên gia cho rằng công thức tăng trưởng của nhiều doanh nghiệp trong thời gian qua là đầu tư mạnh cho nghiên cứu phát triển (R&D) và ứng dụng các công nghệ mới nhằm tăng năng suất lao động, tăng tốc độ đóng gói sản phẩm.

Dự án nghiên cứu phải có lợi nhuận

Một con chip xử lý tín hiệu vô tuyến trạm 5G tuy nhỏ về kích thước nhưng “giải” đến 1.000 tỷ phép tính mỗi giây là bước tiến dài từ nhiều năm đầu tư cho nghiên cứu phát triển của Viettel.

Chip 5G DFE là con chip phức tạp nhất Đông Nam Á, hoàn toàn “make in Viet Nam”, do kỹ sư Viettel làm chủ thiết kế. Đây cũng là thành phần phức tạp nhất trong khối vô tuyến của trạm 5G, đóng vai trò xử lý các thuật toán, điều khiển toàn bộ hoạt động của khối vô tuyến và giao tiếp tốc độ cao với các khối xử lý 5G khác.

Theo TS Nguyễn Trung Kiên, Phó trưởng Ban Công nghệ bán dẫn của Tập đoàn Viettel, người dẫn đầu nhóm kỹ sư thiết kế thành công chip 5G DFE, quá trình phát triển các con chip đến nay đã đem lại nhiều bài học kinh nghiệm trong nghiên cứu, thiết kế và sản xuất.

Chip 5G DFE có mức độ phức tạp tương đương chip Apple A7, có năng lực tính toán 1.000 tỷ phép tính/giây và được các đối tác uy tín như Synopsys đánh giá cao

Đó là bài học về cần phát triển, mở rộng đội ngũ chuyên gia về bán dẫn để đáp ứng được nhanh hơn các nhu cầu về nghiên cứu, thiết kế chip. Doanh nghiệp muốn tham gia vào ngành bán dẫn thì cũng cần tham gia vào hệ sinh thái thông qua các hoạt động hợp tác, nghiên cứu để dễ tiếp cận nhiều hơn với nguồn tri thức, công cụ.

Ông cho biết bộ phận bán dẫn của Viettel hiện làm việc cùng Học viện Viettel để thiết kế một chương trình đào tạo mới cũng như đào tạo cập nhật kỹ năng cho các kỹ sư, với mục tiêu đến năm 2030 có 1.000 kỹ sư bán dẫn, trong đó có 700 nhân sự khâu thiết kế, 300 nhân sự khâu sản xuất.

Chia sẻ với VietTimes, đại diện Viettel cho biết khác với nhiều tổ chức, doanh nghiệp, Viettel triển khai hoạt động nghiên cứu phát triển dưới dạng các dự án, thay vì thực hiện các đề tài nghiên cứu. Các viện nghiên cứu tại Viettel chính là các doanh nghiệp. Trong đó, người đứng đầu là các giám đốc dự án, thay vì các chủ nhiệm đề tài.

Các ý tưởng nghiên cứu khoa học đều được ủng hộ. Mỗi dự án có thời gian thực hiện cụ thể và đều cần đảm bảo bảo mục tiêu hoàn vốn sau 3 năm và tiến tới có lợi nhuận. Người phụ trách các dự án không chỉ đơn thuần làm nghiên cứu khoa học, mà còn phải hiểu biết về thị trường. Trước yêu cầu rất cao về hiệu quả nghiên cứu, các chủ nhiệm đề tài, những người đứng đầu các dự án phải cân nhắc rất kỹ đề tài và đưa ra đề xuất.

Với những việc mới, lĩnh vực mới, Viettel tách nhỏ các đơn vị để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, phản ứng nhanh và linh hoạt. Viettel cũng áp dụng nguyên tắc “chia nhỏ việc lớn” thúc đẩy các nhóm nhỏ chủ động sáng tạo không phụ thuộc, không làm thay, sáng tạo thay.

Viettel áp dụng quy trình “ăn - tiêu hoá - sáng tạo” với hàm ý để có thể sáng tạo đúng và các ý tưởng đưa được vào thực tế thì mỗi người Viettel phải học hỏi, có kiến thức nền tảng, đã vận dụng trong công việc, cuộc sống của chính mình.

Doanh thu hợp nhất của năm 2024 của Viettel là 190 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng ở mức tăng cao nhất ngành, 10,3%. Kết quả đó là cộng hưởng của nhiều yếu tố, trong đó có phần động lực tăng trưởng lớn đến từ nghiên cứu, sản xuất thành công và thương mại hoá các sản phẩm công nghệ cao.

Thiếu tướng Tào Đức Thắng, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Viettel, cho biết Tập đoàn đầu tư khoảng 10.000 tỷ đồng/năm cho hoạt động nghiên cứu và phát triển. Nhờ đó, Tập đoàn đã hoàn thành được nhiều dự án quan trọng do Đảng, Nhà nước, Quân đội giao như nghiên cứu sản phẩm 5G, 5G lõi, các sản phẩm cho công nghiệp quốc phòng.

Năm 2024 đánh dấu bước nhảy vọt của Viettel khi nhiều sản phẩm công nghệ cao, từ vũ khí chiến lược đến thiết bị dân sự, đã chính thức được đưa vào khai thác, kinh doanh thương mại. Những hợp đồng xuất khẩu đầu tiên trị giá hàng triệu USD khẳng định rằng trí tuệ và công nghệ của Viettel có thể cạnh tranh sòng phẳng với các quốc gia trên thế giới.

Các sản phẩm thông tin quân sự của Viettel đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe để cung cấp cho Lục quân Malaysia.

Riêng về mảng sản phẩm công nghệ quốc phòng (CNQP), Viettel cho rằng phần lớn các sản phẩm CNQP công nghệ cao có thể sử dụng trong dân sinh như UAV, vệ tinh viễn thám, hệ thống mô hình mô phỏng,…

Trong những năm tới, Quỹ phát triển Khoa học Công nghệ của Viettel sẽ đầu tư phần lớn kinh phí để phát triển các công nghệ quốc phòng nền tảng và các sản phẩm công nghệ dân sinh sẽ được phát triển trên các công nghệ quốc phòng nền tảng đó. Và ngược lại, nhiều công nghệ ứng dụng cho lĩnh vực dân sinh cũng sẽ được Viettel nghiên cứu đưa vào các trang thiết bị phục vụ quốc phòng.

Viettel chuyển dịch từ quân sự sang nghiên cứu sản phẩm lưỡng dụng được bắt đầu ở một số lĩnh vực có thế mạnh như: Hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống tác chiến điện tử, hệ thống quang điện tử và hệ thống mô phỏng.

Nhân viên kinh doanh, tư vấn tham gia R&D

Còn tại MISA, việc nghiên cứu và phát triển ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) được thực hiện song song giữa hai mảng: Trong sản phẩm và trong công việc, với chiến lược và quy trình gồm các bước: Nghiên cứu; xây dựng bộ tiêu chuẩn; đánh giá và áp dụng, song hành với đó là quá trình truyền thông và đào tạo nội bộ liên tục.

Trong 2 năm gần đây, từ khóa AI đã phủ sóng mạnh mẽ trên khắp các kênh truyền thông trên toàn cầu, đặc biệt là sau sự xuất hiện của ChatGPT. Đợt sóng AI này thúc đẩy nhiều doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu quan tâm đặc biệt đến AI và tìm kiếm các phương án để tăng cường khả năng ứng dụng vào công việc cũng như vào sản phẩm của mình.

Tuy vậy, việc nghiên cứu ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào sản phẩm tại MISA đã bắt đầu từ khoảng 7-8 năm trước, ông Nguyễn Thanh Tùng - Viện trưởng Viện Công nghệ MISA nhớ lại.

Ông Nguyễn Thanh Tùng - Viện trưởng Viện Công nghệ MISA.

Theo ông Tùng, từ năm 2017, MISA đã thành lập Ban Nghiên cứu Phát triển Công nghệ thuộc Khối Sản xuất với nhiệm vụ chuyên môn là nghiên cứu ứng dụng AI vào sản phẩm.

Sau khi nghiên cứu và đưa ra bộ tiêu chuẩn về các công nghệ AI, Hội đồng thẩm định của MISA sẽ dựa trên yếu tố về việc công nghệ có thể áp dụng và mang lại giá trị thực tiễn cho người dùng như thế nào, từ đó đánh giá mức độ ứng dụng thực tiễn.

Nếu việc triển khai dự án mang lại giá trị lớn, có thể xử lý được đúng vấn đề bất cập trọng điểm của khách hàng thì dự án sẽ được xác định mức độ ưu tiên triển khai. Từ đó, ý tưởng khoa học được chuyển sang giai đoạn nghiên cứu.

MISA có bộ phận chuyên trách nghiên cứu sâu về AI, có đội làm sản phẩm, có những đội trung gian họ là người rất hiểu về dữ liệu của sản phẩm ấy.

MISA đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ nhân sự chất lượng cao. Công ty đã nhanh chóng triển khai các phương án tuyển dụng và phát triển đội ngũ nhân sự trẻ từ các sinh viên xuất sắc thuộc các trường đại học hàng đầu. Đồng thời, các chuyên gia dữ liệu cũng được bổ sung để đảm bảo khả năng “dạy” và tối ưu hóa AI.

Robot MC MISA AVA gây ấn tượng đặc biệt với khách mời tham dự sự kiện nhờ khả năng tương tác dẫn chương trình linh hoạt.

"Khi phát triển chatbot trợ lý ảo hướng dẫn, tư vấn bán hàng, đội ngũ nhân viên kinh doanh, vốn là những người hiểu rõ nhất về tri thức sản phẩm, sẽ đóng vai trò chuyên trách, tham gia chuẩn bị dữ liệu, dạy AI, kiểm nghiệm và đánh giá chất lượng", ông Tùng nói với VietTimes.

Tương tự, khi xây dựng chatbot hỗ trợ khách hàng, đội ngũ chuyên trách dữ liệu chính là các nhân viên tư vấn hỗ trợ khách hàng, đảm bảo AI đáp ứng được nhu cầu thực tế.

Đây là những điểm khác biệt so với các thứch làm sản phẩm truyền thống trước đây tại các công ty công nghệ nói chung.

Với quy trình đó, kể từ năm 2017, khi MISA thành lập Ban Nghiên cứu Phát triển Công nghệ, không ít sản phẩm của doanh nghiệp đã bắt đầu được tích hợp một số tính năng về AI, mang lại nhiều cải tiến đáng kể.

Tuy vậy, quá trình nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới cũng đối mặt với nhiều thách thức. Phải tới tháng 12/2023 mới đánh dấu bước ngoặt đột phá của MISA trong việc ứng dụng AI vào sản phẩm khi trợ lý trí tuệ nhân tạo AVA trên phần mềm MISA AMIS kế toán được ra mắt, mang đến nhiều cải tiến trong công tác kế toán cho doanh nghiệp.

Cùng với các sản phẩm chiến lược đang triển khai, MISA cho biết sẽ tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển, tập trung xây dựng mô hình ngôn ngữ lớn tiếng Việt và nền tảng AI Agents, tích hợp sâu vào các sản phẩm. Nền tảng này nhằm mục tiêu là mang đến những giải pháp đột phá, giúp khách hàng gia tăng năng suất, tối ưu hiệu quả và dẫn đầu trong quá trình chuyển đổi số.