Tại họp báo Bộ Khoa học và Công nghệ diễn ra chiều 27/6, ông Nguyễn Phú Hùng - Vụ trưởng Vụ Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ nêu 10 điểm đổi mới mạnh mẽ, thể hiện sự chuyển mình căn bản trong tư duy và định hướng phát triển được thể hiện trong Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) vừa được Quốc hội thông qua sáng 27/6.
Ông Hùng khẳng định đây là bước đột phá trong việc thể chế hóa các Nghị quyết quan trọng của Đảng, nhất là Nghị quyết 57 về phát triển KHCN và Đổi mới sáng tạo; Nghị quyết 66 về phát triển kinh tế tri thức và Nghị quyết 68 về đổi mới cơ chế quản lý nhiệm vụ KHCN.
10 điểm đổi mới được Vụ trưởng Vụ Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ phân tích:
Thứ nhất: Luật khẳng định rõ ràng vai trò nền tảng của Khoa học và Công nghệ. KHCN được xem là yếu tố then chốt, là động lực để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.
Thứ hai: Đổi mới sáng tạo, lần đầu tiên, được đưa vào Luật và được đặt ngang hàng với Khoa học và Công nghệ. Đây là một sự thay đổi căn bản trong tư duy phát triển. Trong khi KHCN là hoạt động chuyên môn của các nhà khoa học, tập trung vào nghiên cứu, phát triển tri thức và công nghệ mới, thì Đổi mới sáng tạo là quá trình của toàn dân.
Thứ ba: Chuyển mạnh mẽ tư duy quản lý từ kiểm soát quy trình và đầu vào, sang quản lý kết quả và hiệu quả đầu ra, chấp nhận rủi ro. Trọng tâm quản lý nhà nước không còn là cách thức thực hiện, mà là kết quả nghiên cứu mang lại và tác động thực tiễn.
Luật có cơ chế cho việc việc thử nghiệm có kiểm soát, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu. Hiệu quả tổng thể sẽ được đo lường, lấy kết quả làm căn cứ phân bổ nguồn lực.
Thứ tư: Luật xác lập định hướng rõ ràng về việc chuyển từ một quốc gia chủ yếu sử dụng công nghệ sang làm chủ các công nghệ chiến lược. Các công nghệ này có tác động lớn đến tăng trưởng kinh tế và an ninh quốc gia.
Ngân sách nhà nước đầu tư sẽ có trọng tâm, ưu tiên cho các nhiệm vụ làm chủ công nghệ chiến lược, thay vì dàn trải như trước. Việc này sẽ được giao cho các doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu có năng lực và uy tín thực hiện.
Thứ năm: KHCN&ĐMST sẽ lấy thị trường, định hướng sản phẩm làm động lực, làm định hướng cho phát triển công nghệ và xác định các bài toán nghiên cứu liên quan. Phương pháp này sẽ giúp KHCN&ĐMST gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu thực tiễn và tạo ra giá trị thiết thực.
Thứ sáu: Đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học thành các trung tâm nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, từng bước hình thành các trung tâm nghiên cứu trình độ cao gắn với đào tạo nhân lực chất lượng cao, bảo đảm phối hợp hiệu quả với mạng lưới viện nghiên cứu chuyên ngành.
Thứ bảy: Chuyển trọng tâm phát triển công nghệ về doanh nghiệp. Lần đầu tiên, Luật dành một chương riêng (chương IV) để quy định các chính sách thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, phát triển và ĐMST trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được khuyến khích mạnh mẽ đầu tư cho R&D, không chỉ bằng nguồn lực của mình mà còn được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước theo nguyên tắc vốn mồi. Các khoản chi cho R&D của doanh nghiệp sẽ được hạch toán như chi phí sản xuất kinh doanh, và còn được tính khấu trừ thuế.
Thứ tám: Dự thảo Luật hướng tới cân bằng nghiên cứu khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, khuyến khích kết hợp liên ngành. Điều này nhằm đảm bảo các công nghệ phát triển gắn liền với giá trị đạo đức cốt lõi của nhân loại. Luật phân biệt rõ cách tiếp cận giữa nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tập trung nhiều hơn cho phát triển công nghệ để tạo tác động nhanh, đồng thời vẫn duy trì nền tảng nghiên cứu cơ bản.
Thứ chín: Định hướng phát triển KHCN trong một hệ sinh thái hoàn chỉnh và cân bằng. Hệ sinh thái này bao gồm thể chế, hạ tầng kỹ thuật, nguồn nhân lực và các chủ thể như doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, nhà khoa học, định chế tài chính, tổ chức trung gian, trung tâm ĐMST và quỹ đầu tư mạo hiểm.
Trong đó, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm dùng chung, hỗ trợ thông tin, tiêu chuẩn, sở hữu trí tuệ, ban hành cơ chế tài chính ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp ĐMST, đồng thời thu hút và đãi ngộ nhân tài, chuyên gia trong và ngoài nước. Sự phối hợp giữa các chủ thể sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ để tạo nền tảng cho mối liên kết bền chặt và hiệu quả của toàn hệ sinh thái ĐMST quốc gia.
Thứ mười: Thực hiện Chuyển đổi số toàn diện trong hoạt động KHCN và quản lý KHCN. Các tổ chức nghiên cứu và phát triển sẽ sử dụng nền tảng số quốc gia để quản lý đề tài, nhiệm vụ KH&CN và các loại hình chi khác sử dụng ngân sách nhà nước.
Luật chuyển từ mô hình tiền kiểm sang hậu kiểm, cắt giảm mạnh thủ tục hành chính và thay thế bằng quản lý số hóa, qua đó nâng cao hiệu quả điều hành, tính minh bạch và khả năng giám sát dài hạn.