Việt Nam đặt mục tiêu vào nhóm dẫn đầu khu vực về hệ thống cáp quang quốc tế

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

Theo Chiến lược phát triển cáp quang quốc tế, đến năm 2027, Việt Nam sẽ triển khai và đưa vào hoạt động thêm 4 tuyến cáp quang biển mới.

Việt Nam sẽ có thêm 10 tuyến cáp quang biển và ít nhất 1 tuyến cáp quang mặt đất trước năm 2030.
Việt Nam sẽ có thêm 10 tuyến cáp quang biển và ít nhất 1 tuyến cáp quang mặt đất trước năm 2030.

Chiến lược phát triển hệ thống cáp quang quốc tế của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035 vừa được Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt đặt mục tiêu đưa Việt Nam vào nhóm dẫn đầu khu vực về hệ thống cáp quang quốc tế.

Chiến lược xác định hệ thống cáp quang quốc tế của Việt Nam là thành phần quan trọng của hạ tầng số, phải được ưu tiên đầu tư hiện đại, đi trước một bước, bảo đảm kết nối của Việt Nam ra quốc tế có dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng, an toàn, bền vững, đủ không gian để một số đô thị trở thành trung tâm dữ liệu khu vực - Digital Hub.

Cùng với đó, việc phát triển hệ thống cáp quang quốc tế nhằm mục tiêu xây dựng khả năng tự chủ trong việc thiết lập, triển khai, sửa chữa các tuyến cáp quang quốc tế, đảm bảo an toàn cho mạng lưới Internet Việt Nam, đáp ứng đầy đủ nhu cầu kết nối quốc tế cho phát triển kinh tế số, xã hội số, quốc phòng - an ninh.

Các doanh nghiệp Nhà nước tiên phong triển khai cáp quang quốc tế, thúc đẩy các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia đầu tư, xây dựng để nhanh chóng phát triển đột phá hệ thống cáp quang quốc tế của Việt Nam.

Chiến lược cũng xác định tầm nhìn đến năm 2035, hệ thống cáp quang quốc tế của Việt Nam sẽ nằm trong nhóm dẫn đầu khu vực về cả số lượng, dung lượng và chất lượng, trở thành lợi thế thu hút đầu tư, xây dựng các trung tâm dữ liệu lớn, các nhà cung cấp dịch vụ điện toán đám mây lớn, tới siêu lớn.

Đồng thời, kết nối đa dạng, an toàn, bền vững, đưa Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng của hạ tầng số, hạ tầng truyền dẫn dữ liệu của khu vực và quốc tế, tạo ưu thế và động lực thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, chuyển đổi số.

Với quan điểm và tầm nhìn trên, chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2030, triển khai và đưa vào hoạt động tối thiểu thêm 10 tuyến cáp quang biển mới với công nghệ hiện đại, nâng tổng số tuyến cáp quang biển của Việt Nam lên tối thiểu 15 tuyến với dung lượng tối thiểu 350 Tbps. Trong đó, có tối thiểu 2 tuyến cáp quang biển do Việt Nam làm chủ kết nối trực tiếp tới các Digital Hub trong khu vực.

Đến năm 2030, hệ thống cáp quang trên biển của Việt Nam được triển khai phân bổ hài hòa theo tất cả các hướng khả thi về mặt kỹ thuật: Kết nối ra biển Đông lên phía Bắc; kết nối ra biển Đông xuống phía Nam; kết nối ra vùng biển phía Nam.

Cùng với đó, Việt Nam còn triển khai và đưa vào sử dụng thêm tối thiểu 2 tuyến cáp quang đất liền quốc tế, đảm bảo tổng dung lượng cáp quang quốc tế trên đất liền đạt tối thiểu 15% dung lượng sử dụng thực tế của hệ thống cáp quang trên biển.

Chiến lược cũng đặt ra lộ trình triển khai các tuyến cáp quang quốc tế. Đến năm 2027, Việt Nam sẽ triển khai và đưa vào hoạt động thêm 4 tuyến cáp quang biển mới, nâng tổng dung lượng đạt tối thiểu 134 Tbps; Tiếp tục duy trì tối thiểu Singapore, HongKong (Trung Quốc), Nhật Bản là Digital Hub kết nối chính; Định kỳ rà soát, đánh giá các Digital Hub xây dựng phương án duy trì, chuyển dịch, bổ sung các điểm kết nối phù hợp theo từng thời kỳ.

Trong 4 tuyến cáp biển mới sẽ được triển khai trong giai đoạn đến năm 2027, sẽ có tối thiểu 1 tuyến cáp quang biển do Việt Nam làm chủ. Bên cạnh đó, sẽ có tối thiểu 1 tuyến cáp quang đất liền quốc tế được triển khai và đưa vào sử dụng.

Với giai đoạn từ năm 2028 đến 2030, có thêm tối thiểu 6 tuyến cáp quang biển mới, bao gồm 1 tuyến do Việt Nam làm chủ, được triển khai và đưa vào sử dụng, nâng tổng dung lượng thiết kế cáp quang trên biển của Việt Nam đạt tối thiểu 350 Tbps.

Giai đoạn 2028 đến 2030, Việt Nam cũng sẽ triển khai và đưa vào hoạt động thêm tối thiểu 1 tuyến cáp quang đất liền quốc tế. Đồng thời, duy trì kết nối tối đa 90% dung lượng cáp quang trên biển tới tối thiểu 4 Digital Hub lớn lân cận trong khu vực châu Á; Duy trì kết nối dự phòng tối thiểu 10% dung lượng cáp quang trên biển tới tối thiểu 2 Digital Hub lớn tại các khu vực châu Mỹ, châu Âu.