Vì sao cổ phiếu công nghệ bị bán ròng mạnh trong quý I?

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

TS Phan Phương Nam, Đại học Luật TP.HCM cho rằng việc cổ phiếu công nghệ bị bán ròng bản chất là chốt lời khi nhà đầu tư đã đạt được lợi nhuận kỳ vọng.

3 tháng đầu năm 2025, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã chứng kiến đợt bán ròng mạnh mẽ. Lũy kế quý I, khối ngoại bán ròng xấp xỉ 25.940 tỷ đồng trên toàn thị trường, tương ứng hơn 1 tỷ USD chảy ra khỏi sàn chứng khoán Việt Nam. Đà bán ròng trong 3 tháng đầu năm tập trung vào cổ phiếu công nghệ, trong đó lớn nhất là FPT, giá trị vượt mức 6.800 tỷ đồng.

Vì sao lại có đợt bán ròng mạnh như vậy, liệu nguyên nhân có tới chính sách thương mại của Mỹ hay bản chất chỉ là chốt lời của nhà đầu tư...? chuyên gia kinh tế, TS Phan Phương Nam, Đại học Luật TP.HCM đã trao đổi với VietTimes về các vấn đề trên, đồng thời ông cũng đưa ra các đánh giá, dự báo về diễn biến TTCK năm 2025, giải pháp để nâng hạng của TTCK Việt Nam.

2e37bd08-15ea-451c-9ac4-8d9cecb0a71a.jpeg
Chuyên gia kinh tế, TS Phan Phương Nam

Cổ phiếu công nghệ bị bán bản chất là chốt lời?

- Thưa ông, Việt Nam đang nỗ lực để nâng hạng TTCK và đã đạt được nhiều tiến triển đáng kể. Trong giai đoạn chuẩn bị nâng hạng, các nhà đầu tư nước ngoài thường đổ ròng vào thị trường. Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay, các nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng khá mạnh. Theo ông, vì sao lại có hiện tượng này?

- Nếu nhìn vào con số thì có thể nhiều người sẽ đánh giá rằng tình hình trên có vẻ ngược với các diễn biến thông thường. Tuy nhiên nếu nhìn vào bối cảnh chung thì có nhiều lý do có thể tác động gây nên tình trạng trên.

Nguyên nhân đầu tiên là sự chênh lệch lãi suất giữa Việt Nam và các nền kinh tế phát triển, đặc biệt là Mỹ. Việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) duy trì lãi suất hoặc hạ lãi suất chậm hơn dự kiến đã khiến cho dòng vốn có xu hướng chảy ngược về các thị trường an toàn hơn như Mỹ, thay vì các thị trường cận biên và mới nổi như Việt Nam.

Tiếp theo, những bất ổn tiềm tàng từ nguy cơ chiến tranh thương mại toàn cầu trong nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng góp phần làm gia tăng tâm lý thận trọng.

Chính điều này đã khiến cho nhiều quỹ đầu tư quốc tế co cụm, giảm phân bổ vốn vào các thị trường cận biên, mới nổi – nơi vốn được xem là nhạy cảm với biến động địa chính trị. Việc bị rút tiền từ nguyên này này không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà tình trạng tương tự cũng xảy ra ở TTCK Thái Lan, Indonesia hay Philippines.

Ngoài ra, tỷ suất sinh lời từ hoạt động đầu tư tại TTCK Việt Nam chưa hấp dẫn như một số thị trường phát triển (DowJones, Nasdaq), cùng với đó giá đồng USD mạnh hơn cũng khiến các tổ chức này phải chịu thêm phần bù chi phí. Điều này khiến nhiều quỹ đầu tư đã chuyển hướng đầu tư sang những thị trường mà tỷ suất sinh lời cao hơn.

- Với các nguyên nhân ông vừa nêu thì việc “giữ chân” các nhà đầu tư nước ngoài xem ra không dễ?

- Trong các lý do trên, hai lý do đầu tiên thì hoàn toàn khách quan và khó xử lý. Đối với lý do thứ ba thì chúng ta có thể khắc phục được thông qua nhiều cách thức.

Ví dụ như đẩy mạnh đầu tư công để tác động về các loại chứng khoán này, thực hiện các giải pháp kinh tế vĩ mô để các doanh nghiệp tăng trưởng tốt, tạo nên nhiều kỳ vọng cho nhà đầu tư, nghiên cứu và đẩy mạnh các đòn bẩy tài chính, các công cụ giao dịch hỗ trợ… giúp nhà đầu tư có thể có thêm nguồn tài chính để thực hiện hoạt động đầu tư khi có cơ hội. Qua đó phần nào tăng sức hấp dẫn cho TTCK Việt và giữ chân các quỹ đầu tư nước ngoài.

- Trong diễn biến bán ròng này, các cổ phiếu công nghệ gần đây bị bán khá nhiều, ông lý giải thế nào về hiện tượng này?

- Việc cổ phiếu công nghệ bị bán khá nhiều cũng là hoạt động bình thường, mang tính khách quan mà thị trường phải chấp nhận. Việc bán này bản chất là chốt lời khi mà nhà đầu tư đã đạt được lợi nhuận kỳ vọng. Đây là hành vi của nhà đầu tư chuyên nghiệp nhằm giảm thiểu rủi ro. Ngoài ra, đây cũng có thể xem là một trong các dấu hiệu tạo đỉnh của chứng khoán công nghệ.

Cuộc khủng hoảng dotcom xảy ra vào cuối thập niên 1990 và đầu 2000 khi các công ty công nghệ được định giá quá cao do đầu cơ quá mức. Niềm tin mù quáng vào tiềm năng của các công ty Internet đã đẩy giá cổ phiếu lên cao hơn giá trị thực. Đến năm 2000, bong bóng vỡ, chỉ số NASDAQ giảm mạnh, nhiều công ty phá sản, và thị trường chịu tổn thất lớn. Sự kiện này là bài học về đầu tư dựa trên giá trị thực và tính bền vững.

Việc lo ngại tình trạng “bong bóng AI” và liên hệ đến sự đổ vỡ thị trường vào năm 2000 đã có và được một vài quỹ đầu tư úp mở. Tuy nhiên, quan điểm của tôi vẫn tin tưởng rằng sự phát triển công nghệ và trí tuệ nhân tạo (AI) là điều mà khoa học đang phát triển và đảm bảo cho sự tiến bộ. Điều này là điều không thể dừng lại.

Dù vậy, sự tăng trưởng cổ phiếu cũng cần phù hợp với khả năng thực tế mặc dù chúng vẫn ẩn trong đó sự kỳ vọng của nhà đầu tư. Việc tạo đỉnh rồi suy thoái và tiếp tục tích lũy để tạo nền vững chắc cho sự tăng trưởng mạnh mẽ trong tương lại của cổ phiếu công nghệ là điều tất yếu của thị trường.

TS Phan Phương Nam cho rằng việc cổ phiếu công nghệ bị bán khá nhiều cũng là hoạt động bình thường, mang tính khách quan mà thị trường phải chấp nhận. Ảnh minh họa.

TS Phan Phương Nam cho rằng việc cổ phiếu công nghệ bị bán khá nhiều cũng là hoạt động bình thường, mang tính khách quan mà thị trường phải chấp nhận. Ảnh minh họa.

Do vậy, nhà đầu tư cần thận trọng và nghiên cứu cẩn thận cũng như có vị thế tốt với các mã chứng khoán công nghệ thì việc nắm giữ lâu dài là điều tốt. Tránh trường hợp chốt lời nhất thời mà không kịp mua lại tại thời điểm thích hợp thì việc bị “cướp hàng”, mất vị thế sẽ tạo tình trạng mua đuổi khi thị trường tăng trưởng là điều mà nhà đầu tư cần cẩn trọng.

- Theo ông, những tháng còn lại của năm 2025, liệu khối ngoại có tiếp tục bán ròng, nhất là khi Tổng thống Mỹ vừa công bố sẽ áp mức thuế đối ứng 46% với Việt Nam?

- Việc Mỹ áp thuế suất 46% lên hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam khả năng cao sẽ làm cho khối ngoại tiếp tục bán ròng ít nhất trong ngắn hạn.

Lý do là tâm lý tiêu cực từ thuế quan, vì mức thuế 46% sẽ làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam tại thị trường Mỹ - nơi chiếm khoảng 28% kim ngạch xuất khẩu (120-130 tỷ USD năm 2024); áp lực tỷ giá gia tăng vì thuế cao làm giảm nguồn cung USD từ xuất khẩu, đẩy tỷ giá USD/VND tăng (dự báo có thể lên 26.000-26.200 VND/USD trong năm 2025), đồng VND mất giá khiến tài sản định giá bằng VND kém hấp dẫn với khối ngoại, vốn đầu tư bằng USD.

Ngoài ra, với chính sách bảo hộ của Mỹ dưới thời ông Trump, dòng vốn có xu hướng rút khỏi các thị trường mới nổi để quay về các thị trường phát triển hơn.

Tuy nhiên, xu hướng bán ròng có thể giảm dần hoặc đảo ngược vào cuối năm 2025 nếu Việt Nam đàm phán thành công với Mỹ để giảm mức thuế hoặc được miễn trừ cho một số mặt hàng chiến lược.

Việc nâng hạng thị trường được thực hiện thành công cũng sẽ giảm được bán ròng. Bởi lẽ nếu Việt Nam được FTSE Russell xem xét nâng hạng Việt Nam lên thị trường mới nổi vào tháng 9/2025 thì có thể thu hút dòng vốn bị động (500 triệu - 1 tỷ USD) và vốn chủ động, giảm áp lực bán ròng.

Hoàn thiện khung pháp lý, giảm rào cản giao dịch

- Thực tế, Việt Nam cũng đang từng bước cải thiện các tiêu chuẩn kỹ thuật để đáp ứng thông lệ quốc tế, tăng thêm sự hấp dẫn của TTCK Việt. Theo ông cần thêm những giải pháp gì để nhà đầu tư nước ngoài cảm thấy hấp dẫn hơn?

- Những động thái này không chỉ thể hiện cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong việc hội nhập kinh tế toàn cầu mà còn là nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, tăng tính minh bạch và hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài.

Ví dụ, Việt Nam điều chỉnh hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật (TCVN) để đạt mức hài hòa cao hơn với tiêu chuẩn quốc tế; đáp ứng 7/9 tiêu chí của FTSE Russell và 10/18 tiêu chí của MSCI, với những cải thiện đáng kể như việc ban hành Thông tư 68/2024/TT-BTC để gỡ bỏ yêu cầu ký quỹ trước giao dịch (pre-funding) cho nhà đầu tư tổ chức nước ngoài... Đây là một bước tiến lớn để tăng tính thanh khoản và linh hoạt cho thị trường.

Tuy nhiên, để TTCK Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn trong mắt nhà đầu tư quốc tế, tôi cho rằng cần hoàn thiện khung pháp lý và giảm rào cản giao dịch.

Cụ thể là mở rộng áp dụng cho tất cả nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm cả cá nhân) để tăng tính cạnh tranh với các thị trường khu vực như Thái Lan hay Indonesia. Hiện nay theo thông tư 68/2024/TT-BTC thì quy định này mới chỉ áp dụng cho tổ chức.

Tiếp theo, cần áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS), vì nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn sử dụng chuẩn mực kế toán nội địa, gây khó khăn cho nhà đầu tư nước ngoài trong việc so sánh và đánh giá.

Thêm vào đó, cần rà soát ngành nghề hạn chế. Cơ quan chức năng cần công bố rõ ràng và minh bạch tỷ lệ sở hữu tối đa của nhà đầu tư nước ngoài trong các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, đồng thời nới lỏng giới hạn ở những ngành không thực sự cần thiết.

Ngoài ra, cũng cần quy định rõ ràng, cụ thể để hoạt động phát hành chứng chỉ lưu ký không quyền biểu quyết (NVDR) được triển khai mạnh mẽ và nhanh chóng đưa hệ thống KRX vào vận hành sớm.

- Việc nâng hạng TTCK sẽ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài với dòng vốn lớn. Khi dòng vốn “vào – ra” liên tục cũng gây ra nhiều áp lực, thậm chí có những cú sốc nhất định với thị trường. Theo ông, Việt Nam cần chuẩn bị phương án ứng phó thế nào?

- Việc nâng hạng TTCK chắc chắn sẽ tạo cơ hội thu hút dòng vốn lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, rõ ràng, điều này cũng đi kèm với những thách thức như biến động dòng vốn, áp lực tỷ giá, và nguy cơ “sốc” thị trường khi dòng tiền “vào – ra” diễn ra mạnh mẽ.

Để ứng phó và quản trị ngoại hối hiệu quả, Việt Nam cần tăng cường dự trữ ngoại hối và linh hoạt quản lý tỷ giá. Theo đó, theo tôi, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần phải duy trì mức dự trữ ngoại hối đủ lớn để can thiệp khi thị trường biến động. Việc có lượng dự trữ ngoại hối lớn không chỉ giúp ổn định tỷ giá mà còn tạo niềm tin cho nhà đầu tư nước ngoài.

Bên cạnh đó, thay vì cố định tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước có thể tiếp tục áp dụng cơ chế tỷ giá trung tâm điều chỉnh hàng ngày, kết hợp với biên độ dao động hợp lý. Lý do là biện pháp này có thể sẽ giúp giảm áp lực đầu cơ và cho phép thị trường tự điều chỉnh trong ngắn hạn.

Nhà nước cũng cần tăng cường kiểm soát dòng vốn nước ngoài. Theo đó, cơ chế giám sát dòng vốn cần được đẩy mạnh thông qua việc thiết lập hệ thống theo dõi dòng vốn “vào – ra” theo thời gian thực để nhận diện sớm các dấu hiệu bất ổn. Đồng thời, nhà nước có thể nghiên cứu và áp dụng thuế giao dịch tài chính hoặc giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong một số lĩnh vực nhạy cảm để giảm thiểu rủi ro từ biến động dòng vốn ngắn hạn.

Tiếp theo, Nhà nước cần nhanh chóng phát triển thị trường tài chính nội địa; đẩy mạnh hoạt động đa dạng hóa công cụ đầu tư như xây dựng thị trường trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu chính phủ mạnh hơn để nhà đầu tư có thêm lựa chọn, giảm phụ thuộc vào cổ phiếu.

Song song với đó là tăng thanh khoản của chứng khoán thông qua việc nâng cao chất lượng và quy mô các công ty niêm yết, đồng thời cải thiện cơ sở hạ tầng giao dịch (hệ thống thanh toán, bù trừ) để thị trường hấp thụ tốt hơn các dòng vốn lớn; tăng cường giám sát và xử lý vi phạm; nâng cao năng lực tổ chức trung gian…

Đặc biệt, Việt Nam cần đẩy mạnh đàm phán thương mại. Theo đó, Việt Nam cần tận dụng đàm phán với Mỹ để giảm thuế suất 46% hoặc xin miễn trừ cho các mặt hàng chủ lực (dệt may, điện tử); mở rộng thị trường xuất khẩu sang EU, Nhật Bản qua các hiệp định FTA để giảm phụ thuộc vào Mỹ, củng cố niềm tin kinh tế cho nhà đầu tư.

Thiết kế chưa có tên (4).jpg
TS Phan Phương Nam tin tưởng VN-Index có thể dao động trong khoảng 1.350 - 1.500 điểm trong năm 2025

VN-Index có thể dao động trong khoảng 1.350 - 1.500 điểm năm 2025

- Tựu trung lại, theo góc nhìn cá nhân, ông dự báo thế nào về TTCK 2025?

- Tôi cho rằng TTCK Việt Nam 2025 sẽ tăng trưởng tích cực trước biến động. Cùng sự phục hồi kinh tế nội địa và nỗ lực nâng hạng thị trường từ cận biên lên mới nổi, VN-Index có thể dao động trong khoảng 1.350 - 1.500 điểm, với thanh khoản cải thiện nhờ dòng tiền nội và sự quay lại của vốn ngoại nếu nâng hạng thành công. Nhưng sự tăng trưởng này cũng có thể trải qua các đợt điều chỉnh ngắn hạn do áp lực chốt lời hoặc ảnh hưởng từ biến động kinh tế toàn cầu.

Một yếu tố thuận lợi khác là động lực từ nâng hạng. Nếu thành công trong việc nâng hạng, kỳ vọng TTCK Việt Nam có thể thu hút dòng vốn thụ động khoảng 200-300 triệu USD và dòng vốn chủ động lên tới 4-5 tỷ USD trong trung hạn.

Về tác động từ kinh tế vĩ mô, Việt Nam có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% của Chính phủ; giải ngân đầu tư công sẽ được thực hiện với quyết tâm mạnh từ Chính phủ, và chính sách tiền tệ linh hoạt, doanh nghiệp hưởng lợi từ chính sách kinh tế… là cơ sở cho những doanh nghiệp niêm yết cải thiện lợi nhuận, từ đó đẩy giá cổ phiếu tăng.

- Xin cảm ơn ông!