Trong dòng chảy lịch sử dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là biểu tượng của trí tuệ, bản lĩnh và tầm nhìn vượt thời đại. Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2025), VietTimes đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học Viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh để phân tích tư duy chiến lược, bản lĩnh chính trị và tầm nhìn quốc tế của Người – những giá trị cốt lõi vẫn còn nguyên sức sống trong công cuộc phát triển và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
Từ việc “chớp thời cơ” trong khoảnh khắc lịch sử năm 1945 đến nghệ thuật đối ngoại khôn khéo, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà cách mạng dân tộc mà còn là nhà tư tưởng toàn cầu. Người kết nối khát vọng độc lập với lý tưởng tiến bộ nhân loại, đặt con người làm trung tâm của mọi chiến lược phát triển.
Bài học về đại đoàn kết toàn dân, về tư duy thời cơ, về quản trị quốc gia “vì dân” vẫn là kim chỉ nam trong thời đại số hóa và toàn cầu hóa. Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là di sản, mà là ánh sáng dẫn đường cho Việt Nam trong hành trình vươn tới tương lai bền vững, nhân văn và hùng cường.
Tầm nhìn vượt thời đại của Hồ Chí Minh
- Thưa ông, Cách mạng Tháng Tám 1945 được đánh giá là cuộc “chớp thời cơ” vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Theo ông, điều đó phản ánh điều gì trong tư duy chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
- Đúng vậy, điểm then chốt trong tư duy chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh là khả năng nhìn thấy thời cơ trong cái hỗn loạn, và hành động rất kịp thời. Vào tháng 8/1945, tình hình quốc tế, khu vực và trong nước đều rất biến động: phát xít Nhật đầu hàng, Đồng minh sắp vào Đông Dương, chính quyền bù nhìn rệu rã. Hồ Chí Minh đã nhìn thấy “khoảnh khắc ngàn năm có một”, nếu không chớp lấy, lịch sử có thể rẽ sang hướng khác. Đó không chỉ là sự nhạy bén chính trị, mà là tư duy chiến lược tầm quốc gia và dân tộc. Người hiểu rõ: “Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, nhưng phải có người dám quyết vào đúng lúc.”

Không phải nhà lãnh đạo nào cũng có thể đưa ra quyết định mang tầm vóc lịch sử trong điều kiện đầy rủi ro như vậy. Hồ Chí Minh không hành động theo cảm tính, mà dựa trên một nền tảng phân tích toàn diện. Người cân nhắc rất kỹ bối cảnh quốc tế, đặc biệt là sự giằng co giữa các cường quốc lớn như Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô, để đưa ra quyết sách Tổng khởi nghĩa. Đây là sự kết hợp giữa lý trí chiến lược và cảm quan chính trị sắc bén, giữa trí tuệ bản lĩnh và niềm tin vững chắc vào sức mạnh quần chúng.
- Bối cảnh năm 1945 rất phức tạp, nhiều lực lượng thù địch, quân đội nước ngoài còn hiện diện. Theo ông, bản lĩnh chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện rõ nhất ở đâu?
- Bản lĩnh chính trị của Bác Hồ thể hiện ở khả năng giữ vững mục tiêu, lựa chọn đúng lực lượng, và hành xử cực kỳ linh hoạt. Người không hoảng loạn trước các lực lượng ngoại bang, dù là quân Tưởng ở miền Bắc hay quân Anh- Pháp ở miền Nam. Người cũng không bị chi phối bởi các đảng phái chống đối. Sau ngày độc lập, Hồ Chí Minh chủ động mời một số nhân sĩ, trí thức và đại diện các đảng khác vào Chính phủ liên hiệp. Đó là bản lĩnh của một nhà lãnh đạo có nội lực chính trị vững vàng, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết.
Bản lĩnh ấy còn thể hiện ở cách Người xử lý những tình huống ngặt nghèo. Khi nhiều người muốn tiêu diệt các đối tượng chính trị đối lập, Hồ Chí Minh chủ trương hòa hợp, tạo ra một mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi để giữ vững chính quyền non trẻ. Đặc biệt, trong đối ngoại, Người kiên quyết giữ thế chủ động, không để đất nước rơi vào thế bị động hay bị lợi dụng. Chủ trương “hòa để tiến”, “dĩ bất biến ứng vạn biến” là minh chứng cho nghệ thuật lãnh đạo đầy trí tuệ, linh hoạt nhưng không đánh mất nguyên tắc.

- Tầm nhìn quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Cách mạng Tháng Tám và sau đó có gì đáng chú ý, thưa ông?
- Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà yêu nước, mà là nhà cách mạng quốc tế. Người am hiểu sâu sắc cục diện toàn cầu. Ngay từ khi viết thư gửi Tổng thống Mỹ Truman năm 1945, Hồ Chí Minh đã vận dụng ngôn ngữ của Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ và Tuyên ngôn Nhân quyền Pháp. Người hiểu rõ “sức mạnh của lẽ phải” trong không gian quốc tế. Tư duy này cho thấy tầm nhìn của một lãnh tụ không chỉ nghĩ cho dân tộc mình, mà còn đặt dân tộc mình trong dòng chảy của thời đại, của nhân loại văn minh.
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh rằng muốn đất nước được công nhận, thì cần nói bằng “ngôn ngữ chung” của thế giới văn minh, đó là nhân quyền, tự do, hòa bình. Người rất khôn ngoan trong việc tranh thủ sự ủng hộ của phong trào dân chủ quốc tế, nhất là các lực lượng tiến bộ ở Pháp, Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc. Nhờ vậy, cách mạng Việt Nam không bị cô lập mà ngày càng giành được sự đồng tình, cổ vũ rộng rãi. Đây là nền tảng tư duy đối ngoại vẫn còn nguyên giá trị cho Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa và cạnh tranh chiến lược hôm nay.
- Có ý kiến cho rằng Hồ Chí Minh đã kết nối thành công khát vọng độc lập dân tộc với lý tưởng tiến bộ toàn cầu. Quan điểm của ông?
- Tôi hoàn toàn đồng ý. Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. Nhưng Người không áp đặt. Người biết chắt lọc tinh thần yêu nước truyền thống, kết hợp với tư tưởng hiện đại, tiến bộ. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh không rập khuôn mà sáng tạo, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên mọi ý thức hệ. Đây là điều làm nên sức thuyết phục và thành công bền vững của cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh nhận thức rõ rằng, không thể giải phóng dân tộc nếu xa rời quần chúng nhân dân và càng không thể hiện đại hóa đất nước nếu cắt lìa khỏi những giá trị nhân loại. Tư duy biện chứng ấy giúp Người tạo ra một mô hình phát triển độc đáo: giữ vững bản sắc nhưng không bảo thủ; tiếp thu cái mới nhưng không lai căng. Sự kết nối nhuần nhuyễn giữa cái dân tộc và cái hiện đại, giữa tinh thần phương Đông và tư duy phương Tây là cốt lõi tạo nên bản lĩnh Việt Nam ngày nay.
Bài học từ Cách mạng Tháng Tám - Đại đoàn kết toàn dân và “chớp thời cơ”
- Một trong những yếu tố làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là sức mạnh đoàn kết toàn dân. Bài học ấy có còn nguyên giá trị hôm nay?
- Chưa bao giờ bài học ấy lại có giá trị như bây giờ. Trong bối cảnh đất nước hội nhập sâu, đối mặt với nhiều thách thức, từ biến đổi khí hậu, xung đột địa chính trị đến chuyển đổi số, thì không có sức mạnh nào lớn hơn khối đại đoàn kết toàn dân. Hồ Chí Minh nói rõ: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết- Thành công, thành công, đại thành công”. Đó không phải là khẩu hiệu mà là một chiến lược phát triển đất nước. Muốn thực hiện khát vọng hùng cường, chúng ta phải huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là lòng dân.
Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Lực lượng của dân là vô địch”. Chính vì vậy, mọi chủ trương, chính sách nếu không xuất phát từ lợi ích thiết thân của nhân dân, không được nhân dân đồng thuận thì khó thành công. Trong giai đoạn mới, đoàn kết không chỉ giới hạn trong nội địa mà còn mở rộng ra cộng đồng người Việt ở nước ngoài, các tầng lớp tri thức, doanh nhân, lực lượng trẻ… Bài học về đại đoàn kết cần được cụ thể hóa bằng những hành động thiết thực trong xây dựng thể chế, phân bổ nguồn lực và nâng cao năng lực làm chủ của người dân.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng “thời cơ”. Vậy ngày nay, trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển dịch toàn cầu, tư duy ấy có còn phù hợp?
- Rất phù hợp, thậm chí còn thiết thực hơn bao giờ hết. Hồ Chí Minh từng nói: “Phải biết nắm lấy thời cơ khi nó đến, nếu không nó sẽ vuột qua rất nhanh”. Ngày nay, thời cơ đến từ trí tuệ nhân tạo, từ xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng, từ làn sóng đổi mới sáng tạo toàn cầu. Việt Nam phải có “bản lĩnh Hồ Chí Minh” để quyết đoán, linh hoạt và dám đi trước. Tư duy thời cơ của Người là lời nhắc cho chúng ta rằng: không có quốc gia nghèo nào vươn lên nếu bỏ lỡ những cơ hội mang tính lịch sử.

Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên mà “ai nhanh, người đó thắng”. Tuy nhiên, nhanh mà thiếu chính xác thì lại phản tác dụng. Tư duy Hồ Chí Minh về thời cơ không chỉ là tốc độ mà còn là độ chín muồi về điều kiện chủ quan và khách quan. Vì vậy, Việt Nam cần xây dựng một hệ sinh thái có khả năng phát hiện, phân tích và tận dụng thời cơ, từ đổi mới giáo dục, cải cách thể chế đến nâng cao năng lực dự báo chiến lược. Đó là cách để tiếp nối tinh thần của Cách mạng Tháng Tám trong thời đại số.
- Nếu Chủ tịch Hồ Chí Minh sống trong thời đại hiện nay, theo ông Người sẽ quan tâm điều gì nhất?
- Tôi tin rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ vẫn giữ nguyên mối quan tâm số một: con người. Người từng nói: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường giáo dục”. Trong thời đại ngày nay, giáo dục, khoa học- công nghệ, phát triển con người toàn diện chính là chìa khóa cho sự phát triển bền vững. Người cũng rất chú trọng môi trường và đạo đức, những giá trị mà hiện nay chúng ta cần phục hồi và phát huy mạnh mẽ.
Hồ Chí Minh sẽ đặc biệt quan tâm đến thế hệ trẻ, những người mang khát vọng, sức sáng tạo nhưng cũng dễ bị tổn thương trước tác động của thời cuộc. Người sẽ chú ý đến vấn đề công bằng trong tiếp cận tri thức, phát triển bền vững, lối sống nhân văn và mối quan hệ hài hòa giữa con người – công nghệ – tự nhiên. Với Người, phát triển không thể đánh đổi đạo lý và bản sắc. Vì vậy, chăm lo cho con người không chỉ là chính sách xã hội mà còn là chiến lược phát triển quốc gia bền vững.
- Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và chuyển đổi số, tư tưởng Hồ Chí Minh còn mang lại giá trị gì cho quản trị quốc gia hiện đại?
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước “của dân, do dân, vì dân” vẫn là nguyên lý cốt lõi. Trong chuyển đổi số, vấn đề không phải là công nghệ nào, mà là ai được phục vụ, phục vụ để làm gì. Nếu ta giữ được tinh thần dân chủ, minh bạch, lấy dân làm trung tâm như Hồ Chí Minh từng làm, thì công cuộc chuyển đổi số sẽ không bị rơi vào hình thức. Người nói rất rõ: “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”. Đây là chuẩn mực cao nhất cho mọi nhà quản trị, mọi cơ quan công quyền trong thời đại số hóa hôm nay.
Chuyển đổi số không phải là cuộc chơi kỹ thuật, mà là một phép thử về tư duy thể chế. Chỉ khi nào dữ liệu số đi đôi với quyền công dân số, khi người dân thực sự làm chủ thông tin, khi chính quyền hành động vì dân chứ không phải vì thành tích, thì khi đó ta mới bước vào giai đoạn Nhà nước thông minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là ánh sáng dẫn đường – không chỉ trong đạo đức công vụ, mà trong mọi quyết định về phân quyền, điều hành, và kiểm soát quyền lực nhà nước hiện đại.
- Xin trân trọng cảm ơn ông!

Bà Nguyễn Thị Bình - Biểu tượng của hòa bình, giáo dục và lòng nhân ái

Trí thức là “tấm khiên” của chân lý và động lực của khát vọng Việt Nam
