Bà Nguyễn Thị Bình - Biểu tượng của hòa bình, giáo dục và lòng nhân ái

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc

Từ bàn đàm phán Paris 1973 đến những cải cách giáo dục sau ngày đất nước thống nhất, từ ngoại giao tới thiện nguyện, cuộc đời Bà Nguyễn Thị Bình là tấm gương về trí tuệ, bản lĩnh và lòng nhân ái, một di sản để thế hệ trẻ Việt Nam, noi theo.

Người phụ nữ của mùa xuân Paris

Mùa đông Paris năm 1973 có một hình ảnh khiến báo chí quốc tế không thể quên: một người phụ nữ Việt Nam mặc áo dài tím, tóc búi gọn, ánh mắt kiên nghị nhưng bình thản, đó là bà Nguyễn Thị Bình, Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris.

111.jpg
Bà Nguyễn Thị Bình, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong một cuộc phỏng vấn với truyền thông nước ngoài. Ảnh: En.baoquocte

Chiến tranh Việt Nam kéo dài đã gần 20 năm, những vết thương lòng trên đất nước bị chia cắt đau đớn, máu xương hòa lẫn với khói lửa. Trong căn phòng đàm phán, mọi cử chỉ, lời nói đều mang trọng trách của cả dân tộc, và bà Bình, người phụ nữ duy nhất giữ vị trí Bộ trưởng Ngoại giao, đã trở thành biểu tượng cho khát vọng hòa bình.

“Bà không chỉ đại diện cho một chính phủ, mà còn là biểu tượng của phụ nữ Việt Nam kiên cường trong chiến tranh. Sự bình tĩnh của bà trên bàn đàm phán là thứ vũ khí sắc bén nhất", Đại sứ Phạm Sanh Châu từng nói.

Ngày 27/1/1973, khi Hiệp định Paris được ký kết, hình ảnh bà Nguyễn Thị Bình ký tên trên văn bản lịch sử đã được hàng loạt báo chí thế giới đăng tải, minh chứng cho sự cương quyết và tinh thần ngoại giao đỉnh cao của người phụ nữ Việt Nam.

Từ Bộ Trưởng Ngoại giao đến Bộ Trưởng Giáo dục

Bà Nguyễn Thị Bình sinh ngày 26 tháng 5 năm 1927. Quê quán bà ở xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.

Bà là một trong những nhân vật tiêu biểu của phong trào cách mạng miền Nam Việt Nam, lớn lên trong một gia đình truyền thống yêu nước, bà sớm được thấm nhuần tinh thần đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. Từ khi còn trẻ, bà đã tích cực tham gia vào các hoạt động cách mạng, góp phần vào cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của chế độ thực dân và chính quyền tay sai.

Tuổi trẻ của bà gắn liền với những năm tháng hoạt động không mệt mỏi, đối mặt với hiểm nguy và thử thách. Bà từng bị bắt giữ và trải qua những năm tháng tù đày trong nhà tù Chí Hòa, nơi được biết đến với sự khắc nghiệt và tàn bạo bậc nhất trong lịch sử nhà tù ở Việt Nam.

Dù chịu đựng những điều kiện giam giữ vô cùng gian khổ, bà không một lần khuất phục hay từ bỏ lý tưởng cách mạng. Ngược lại, những năm tháng trong tù đã rèn luyện cho bà bản lĩnh thép, sự kiên cường và một quyết tâm sắt đá để phục vụ đất nước. Chính trong hoàn cảnh đó, bà tôi luyện cho mình một tinh thần bất khuất, lòng tin mãnh liệt vào con đường cách mạng và khát vọng hòa bình cho dân tộc.

001.jpg
Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm, chúc mừng nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3. Ảnh: Dương Giang/TTXVN

Từ 01/1969-6/1976 Bà đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam; đồng thời là Trưởng đoàn đàm phán tại Hội nghị Pari (1968-1973).

Trên cương vị Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, bà đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và củng cố đường lối đối ngoại của Chính phủ cách mạng. Với vốn hiểu biết sâu rộng về chính trị và ngoại giao cùng tinh thần tận tụy vì đất nước, bà đã tích cực thúc đẩy quan hệ với các lực lượng quốc tế, vận động sự ủng hộ từ các nước bạn, góp phần nâng cao vị thế của Chính phủ Cách mạng Lâm thời trên trường quốc tế.

Bà không chỉ là người phát ngôn đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân miền Nam mà còn là một chiến sĩ ngoại giao tài năng, khẳng định vai trò chủ động và sáng tạo trong đấu tranh ngoại giao. Nhờ sự đóng góp to lớn của bà, tiếng nói của Chính phủ Cách mạng Lâm thời được lắng nghe rộng rãi, đồng thời góp phần quan trọng vào công cuộc bảo vệ nền độc lập, tự do cho miền Nam và cả nước. Qua đó, bà đã ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử ngoại giao cách mạng Việt Nam, trở thành tấm gương sáng về lòng kiên trì và sự tận tụy đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Khi nhắc đến “Madam Bình”, như báo chí phương Tây từng gọi, nhiều học giả, chính khách phương Tây đều dành cho bà sự tôn trọng sâu sắc.

Bà Madeleine Albright, cựu Ngoại trưởng Mỹ, trong hồi ký của mình, từng viết: “Bà Bình là một trong những nhà đàm phán kiên định và duyên dáng nhất tôi từng gặp. Sự hiện diện của bà là minh chứng rằng phụ nữ có thể định hình hòa bình". "Trong khi đó ông William Duiker, nhà sử học Mỹ, nhận xét: “Phong thái của bà, nhẹ nhàng nhưng kiên định, đã giúp Việt Nam giữ thế thượng phong ngoại giao". Còn nhà báo Pháp Jean-Claude Pomonti thì viết: “Bà là hiện thân của trí tuệ Á Đông, với tư duy và tầm nhìn quốc tế rõ nét".

Sau ngày đất nước thống nhất, bà Bình nhận trọng trách Bộ trưởng Bộ Giáo dục. Đó là thời kỳ gian khó khi hệ thống giáo dục bị tàn phá, trường lớp thiếu thốn, giáo viên lương thấp, nhiều vùng sâu vùng xa học sinh chưa có cơ hội đến trường.

Bà không chỉ là người hoạch định chính sách mà còn dành nhiều thời gian đi thực tế vùng khó khăn, từ những bản làng hẻo lánh đến các trường học vùng sâu vùng xa. Bà chứng kiến tận mắt những lớp học tạm bợ, trẻ em nhem nhuốc nhưng khát khao học chữ vẫn cháy bỏng.

Chính sách của bà tập trung vào: phổ cập giáo dục tiểu học, xóa mù chữ, cải tiến chương trình học kết hợp lao động thực tế và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, đặc biệt khuyến khích vai trò của phụ nữ trong ngành giáo dục.

“Bà không chỉ ký các văn bản chính sách. Bà đi tận nơi, lắng nghe tận tai. Ở những bản làng xa nhất, người ta vẫn nhớ hình ảnh bà Bình đến thăm lớp học", PGS.TS Nguyễn Kim Hồng, ĐH Sư phạm TP.HCM từng nhận xét.

Bà quan niệm: “Giáo dục không chỉ là truyền đạt kiến thức, mà là mở ra cánh cửa cho con người tự do, tự chủ".

Trọn đời cho hòa bình và thiện nguyện

Ba b.jpg
Cuốn hồi ký "Gia đình, bạn bè và đất nước" tái hiện cuộc đời và những dấu son trong sự nghiệp của bà Nguyễn Thị Bình.

Dù đã rời ghế Bộ trưởng, bà Nguyễn Thị Bình vẫn tiếp tục các hoạt động xã hội và có những đóng góp lớn lao. Năm 2003, bà sáng lập Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam, một tổ chức thúc đẩy các hoạt động vì hòa bình, phát triển và hỗ trợ nạn nhân chiến tranh.

Bà dành nhiều tâm huyết cho công tác giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, cũng như các chương trình học bổng dành cho trẻ em khó khăn trên cả nước. Một tình nguyện viên nhớ lại: “Bà không muốn chúng tôi gọi là “Phó Chủ tịch nước”. Bà bảo “cứ gọi là cô Bình cho gần gũi”. Có lần trời mưa to, bà tự lái xe đến trung tâm bảo trợ trẻ em, mang theo sách và bánh kẹo, ngồi bệt xuống sàn chơi với các em".

Hành trình cuộc đời bà Nguyễn Thị Bình là bài học về trí tuệ, bản lĩnh và lòng nhân ái. Bà từng gửi gắm với thế hệ trẻ: “Không ai trao cho mình vị trí. Mình phải tự bước lên, bằng năng lực và sự chuẩn bị của chính mình".

Hình ảnh bà, người phụ nữ từ bàn đàm phán quốc tế đến những lớp học vùng sâu vùng xa, luôn là nguồn cảm hứng để phụ nữ trẻ Việt Nam dám mơ, dám làm và dám vượt qua thử thách.

Quá trình công tác

- Từ 8/1945-01/1946: Tham gia vào phong trào quần chúng giành chính quyền tại Sài Gòn. Bắt đầu kháng chiến, tham gia tiếp tế và chuyển vũ khí ra chiến khu cho Chi đội I Miền Đông

- Từ 02/1946-6/1947: Uỷ viên Ban Chấp hành Phụ nữ cứu quốc, Quận 3, Sài Gòn - Chợ Lớn.

- Từ 7/1947-6/1951: Thư ký, rồi Đoàn trưởng phụ nữ cứu quốc thành Sài Gòn, Bí thư Đảng đoàn Phụ nữ Sài Gòn - Chợ Lớn. Tham gia mặt trận Liên - Việt, vận động thanh niên, trí thức.

- Từ 7/1951-12/1954: Bị địch bắt giam ở khám Chí Hòa, là Chi ủy viên Chi bộ nhà tù Chí Hòa; ra tù tiếp tục hoạt động trong phong trào hòa bình đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ 1954.

- Từ 01/1955-1957: Cán bộ của Hội liên hiệp Phụ nữ Trung ương.

- Từ 1957-1959: Học lý luận chính trị tại Trường Nguyễn Ái Quốc

- Từ 1959-1962: Trưởng ban Phúc lợi, Đảng đoàn phụ nữ Trung ương

- Từ 7/1962-12/1968: Ủy viên Trung ương phụ trách công tác đối ngoại Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

- Từ 01/1969-6/1976: Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Trưởng đoàn đàm phán tại Hội nghị Pari (1968-1973).

- Từ 7/1976-6/1987: Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Ủy viên TW Đảng khóa 5.

- Từ 7/1987-8/1992: Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng, kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban Đối ngoại của Quốc hội.

- Từ 9/1992-8/2002: Phó Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam.

- Tháng 9/2002: Nghỉ hưu.

- Từ 2003 đến nay: Chủ tịch Quỹ Hòa bình và phát triển Việt Nam.