Chia sẻ với VietTimes nhân ngày đầu xuân, TS Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, cho biết trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, việc đặt ra mục tiêu và triển khai thành công các dự án khoa học công nghệ, các dự án ứng dụng khoa học công nghệ vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội là rất cần thiết. Việc triển khai thực hiện nếu chỉ làm theo quy định hành chính thì rất khó tạo ra những thành tựu đột phá.
Bên cạnh đó, nếu không có tổng công trình sư để thu hút, tập hợp sức mạnh của đội ngũ các nhà khoa học thì sẽ không có sản phẩm tầm cỡ quốc gia, có ảnh hưởng toàn cầu.
- Ông nói đến “tổng công trình sư”, người này cần có năng lực, điều kiện như thế nào, thưa ông?
Tổng công trình sư không nhất thiết phải là người làm những công việc cụ thể trong dự án, mà cần đáp ứng được 3 tiêu chí:
Trước tiên, đó phải là người có hiểu biết rộng, có trình độ cao về nhiều lĩnh vực chuyên môn của dự án.
Thứ hai, phải là người có uy tín trong cộng đồng chuyên gia của lĩnh vực dự án, để có thể tập hợp được những người giỏi nhất trong ngành, trong lĩnh vực thành tập thể khoa học mạnh cùng triển khai dự án.
Thứ ba, đó phải là người thực sự có quyền lực, được Chính phủ hay tập đoàn, doanh nghiệp lớn giao cho quyền lực, quyền tự chủ cao để có thể quyết định tổ chức bộ máy, chủ động sử dụng nguồn lực vật chất và tài chính được giao, điều động và mời gọi được các cá nhân trong và ngoài bộ máy Nhà nước, ở trong nước hay nước ngoài cùng tham gia triển khai dự án.
Tôi cho rằng cá nhân đảm nhiệm vai trò tổng công trình sư cho một chương trình, một dự án có thể là nhà khoa học của Viện Hàn lâm, của Đại học Bách khoa, hoặc là người Việt đang làm ở Silicon Valley, thậm chí là chuyên gia người nước ngoài… Và điều quan trọng là cá nhân ấy tập hợp, điều động và quy tụ được đội ngũ chuyên gia giỏi, có nhiệt huyết cống hiến thành một tập thể khoa học mạnh.
Ví dụ, tổng công trình sư trong lĩnh vực vi mạch bán dẫn có thể không trực tiếp làm về thiết kế vi mạch, nhưng cần am hiểu về vi mạch bán dẫn, hiểu rõ các công đoạn trong chuỗi giá trị của vi mạch bán dẫn, hiểu về vật liệu, trình độ công nghệ, đầu tư,…và tập hợp được đội ngũ những người giỏi nhất đứng đầu các công đoạn trong chuỗi sản xuất từ thiết kế, sản xuất, kiểm thử, đóng gói đến thương mại hóa và dịch vụ.
- Sau khi được tuyển chọn, tổng công trình sư cần điều kiện gì để thực hiện nhiệm vụ, thưa ông?
Người đó được trao quyền để mời các chuyên gia ở nước ngoài hay điều động chuyên gia trong nước cùng quy tụ để thực hiện dự án được giao.
Đặc biệt, người này phải được quyền quyết định về chế độ đãi ngộ để đáp ứng nhu cầu chính đáng của đội ngũ nhằm đảm bảo điều kiện tốt nhất để họ cống hiến trí tuệ cho chương trình mà tổng công trình sư đang được giao triển khai.
Tôi cho rằng cần có cơ chế đặc thù cho các chương trình, dự án trọng điểm. Với mỗi chương trình, dự án, cá nhân đảm nhiệm vai trò tổng công trình sư sẽ xây dựng dự toán, sau khi được phê duyệt sẽ được giao toàn quyền triển khai với yêu cầu đạt được tiến độ và tạo ra sản phẩm như mục tiêu dự án đặt ra trước đó.
- Hiện chúng ta chưa có tổng công trình sư nhưng với các công tác trọng điểm của các ngành, các lĩnh vực đều có ban chỉ đạo. Ông có cho rằng hoạt động của tổng công trình sư có phần nào đó trùng dẫm với ban chỉ đạo?
Việc thành lập các ban chỉ đạo hiện nay còn mang tính hình thức và kém hiệu quả, bởi đơn thuần các thành viên ban chỉ đạo chỉ là lãnh đạo các cơ quan đầu mối triển khai. Công việc không “chạy” vì có nhiều người chỉ đạo mà không có người thực sự có năng lực làm trực tiếp, không có nhóm nghiên cứu mạnh để tạo ra giải pháp đột phá và bám sát vào quá trình triển khai để hiện thực hóa những giải pháp đột phá đó.
Tất nhiên, trong một số lĩnh vực có thể chúng ta chỉ cần ban chỉ đạo là đủ, vì hoạt động đó chủ yếu mang tính phong trào, quy mô rộng, không định hướng đến một sản phẩm cụ thể và do nhiều đối tượng tham gia. Nhưng trong thời đại chuyển đổi số và cuộc cách mạng công nghệ phát triển với tốc độ nhanh hiện nay, chúng ta cần có những sản phẩm công nghệ ngang tầm thế giới, vì thế rất cần các dự án KH&CN lớn và các tổng công trình sư bên cạnh các ban chỉ đạo.
Chúng ta có làm ra được những nền tảng công nghệ như Facebook hay TikTok không? Chúng ta muốn làm mạng xã hội của người Việt, nhưng hơn chục năm qua chưa có dự án nào thành công. Hay dự án Điện hạt nhân, đường sắt Bắc - Nam tốc độ cao cũng vậy. Nếu chỉ đơn thuần lập ban chỉ đạo thì cuối cùng nhiều phần việc quan trọng sẽ do nhà thầu nước ngoài đảm trách.
Còn Việt Nam muốn làm thật sự thì cần có tổng công trình sư như người tổng chỉ huy dự án. Có thể trước mắt chúng ta tự lực làm được một vài công đoạn, một vài chi tiết, một vài trang thiết bị, nhưng về lâu dài thì ta sẽ làm chủ công nghệ, tiến tới sáng tạo công nghệ và sẽ làm được toàn bộ dự án thay thế nhà thầu nước ngoài.
Có thể học tập kinh nghiệm của các nước phát triển, đơn cử như chương trình vũ trụ của Trung Quốc, họ mời một nhà khoa học từ Mỹ về, giao nhiệm vụ và có quyền lực tuyệt đối. Và chỉ một thời gian ngắn Trung Quốc đã phóng được tàu vũ trụ Thần Châu lên quỹ đạo. Hay các chương trình vũ trụ và hạt nhân, các dự án máy bay của Liên Xô (cũ) luôn gắn liền với tên tuổi các Tổng công trình sư Korolop Kurshatov, Sukhoi hay Tupolep,…
- Như ông vừa nói, tổng công trình sư sẽ toàn quyền quyết định để thực hiện nhiệm vụ, từ định hướng triển khai, nhân sự, chế độ thu nhập, tưởng thưởng,… Nếu vậy thì sẽ nảy sinh vướng mắc về tài chính và cả nguồn lực, thưa ông?
Tôi cho rằng lãnh đạo cấp cao cần hiểu mô hình của tổng công trình sư. Đó hiện nay cũng là điểm nghẽn trong lĩnh vực khoa học công nghệ để đất nước phát triển.
Người đảm nhiệm chức danh tổng công trình sư bên cạnh việc tập hợp các nhà khoa học uy tín để làm ra các sản phẩm theo yêu cầu của nhà nước, xã hội thì còn được giao quyền xử lý các ách tắc, tháo gỡ những vướng mắc của hệ thống pháp luật.
Trong hoạt động khoa học cũng như nhiều lĩnh vực khác có yếu tố rủi ro, mình phải có tư duy chấp nhận rủi ro. Chưa kể hoạt động khoa học mang tính sáng tạo và tính mới nên cần có cơ chế đặc thù. Điều này đã được các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước đề cập trong thời gian gần đây.
Ví dụ ta chọn 10 ông tổng công trình sư làm 10 dự án thì có thể có đến 6-7 ông không hoàn thành đến giai đoạn cuối cùng hoặc dự án thất bại. Nhưng ít nhất ta có 2-3 dự án thành công, tạo ra sản phẩm chủ lực cho nền kinh tế; còn hơn là cứ làm theo kiểu cũ, không có người chịu trách nhiệm, và cả 10 dự án đều thất bại hoặc hiệu quả thấp.
Cần nhìn nhận thực tế là cho đến nay, chúng ta không có những sản phẩm công nghệ thương hiệu Việt Nam mang giá trị toàn cầu. Những sản phẩm được quốc tế ưa chuộng hiện nay như Hyundai, Samsung, Facebook, Honda,… đều là gắn với những tên tuổi cá nhân. Ngay cả với Elon Musk hay Jensen Huang, cách đây 10 năm chắc ít người nghĩ các ông ấy thành công được. Họ đều phải trải qua những giai đoạn khó khăn, thậm chí có lúc đứng trên bờ vực phá sản rồi xây dựng lại sự nghiệp, đúng không?
Ta phải chấp nhận tư duy rủi ro, chứ đừng áp đặt rằng phải thành công 100%. Nếu nghĩ như vậy, không ai dám nhận nhiệm vụ. Kể cả những nhà khoa học giỏi nhất, không ai dám nói trước rằng mình sẽ thành công. Nhưng nếu ta đặt niềm tin vào họ, giao quyền cho họ thì xác suất thành công cao hơn, bởi họ cảm thấy được tôn trọng, được tin tưởng thì họ sẽ cố gắng nhiều hơn. Cùng với đó là việc hỗ trợ tối đa để họ tập hợp những người giỏi nhất thì khả năng thành công sẽ cao hơn.
- Còn chế độ đãi ngộ đối với những người có năng lực nổi bật, được lựa chọn để ‘cầm cờ” trong triển khai các chương trình, dự án khoa học công nghệ thì nên như thế nào, thưa ông?
Để thực hiện được mô hình tổng công trình sư, chung quy vẫn là chế độ đãi ngộ và trọng dụng. Chế độ đãi ngộ không phải chỉ có tiền lương, mà trước tiên là điều kiện làm việc, môi trường làm việc, trong đó người ta phải được tôn trọng, được tin tưởng giao việc, được cống hiến và được quyền tự chủ cao.
Ví dụ một số địa phương mời các giáo sư về tỉnh làm việc, có ưu đãi về giao đất, cấp cho căn hộ, hay bố trí cho ôtô riêng, nhưng cả năm lãnh đạo địa phương không gặp gỡ cũng không giao việc gì. Bản thân họ phải tự đi đến các trường, các viện ở địa phương để xin việc.
Đó không phải cách “chiêu hiền đãi sĩ”. Các nhà khoa học cần được tôn trọng, được giao việc, nếu không sớm muộn họ cũng sẽ bỏ đi. Đã mời họ về phải tin tưởng họ, giao việc cho họ, tạo “đất” để họ cống hiến.
- Trong bối cảnh hiện nay, nhiều nhà khoa học có biểu hiện không muốn “xuất hình, lộ diện” do sợ liên quan câu chuyện pháp luật. Ông nghĩ gì về thực tế này?
Hệ thống luật pháp Việt Nam hiện còn chồng chéo, chưa được minh bạch, nhiều quy định chưa tiếp cận với thông lệ quốc tế, chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động nghiên cứu và ứng dụng KH&CN. Đây là một trong những điểm cản trở việc thu hút người tài đóng góp hết sức mình cho đất nước.
Ví dụ, về cơ chế tài chính, nếu xác định cá nhân đảm trách vai trò tổng công trình sư hoặc các nhà khoa học không vụ lợi, tham nhũng, không “bỏ tiền dự án vào túi” thì cần có cơ chế miễn trừ để bảo vệ họ, nhất là khi dự án không thành công. Hoặc để triển khai các dự án, tổng công trình sư hay nhà khoa học cần mua bằng sáng chế, mua bí quyết công nghệ mà nhiều khi không phải công nghệ, thiết bị nào cũng được bán công khai hoặc chỉ có một nhà cung cấp, làm sao có thể thực hiện qua đấu thầu, làm sao có hóa đơn chứng từ đầy đủ?
Ngoài ra, cũng cần có thời hiệu cho việc xem xét trách nhiệm của các nhà khoa học đối với dự án không thành công. Nếu dự án đó không thành công do nguyên nhân khách quan, sau khi thực hiện đầy đủ các thủ tục nghiệm thu, quyết toán, kiểm toán, thanh tra mà không thấy có sai phạm chủ quan thì hết thời hiệu đó sẽ không truy cứu trách nhiệm của các nhà khoa học chủ trì dự án. Có như vậy họ mới yên tâm công tác, yên tâm cống hiến.
- Xin cảm ơn ông!
Kính mời độc giả đọc đặc san VietTimes Xuân Ất Tỵ 2025 với chủ đề "Chuyển đổi số và kỷ nguyên vươn mình" tại đây!