Con số này tại ngân hàng liên doanh, nước ngoài tăng 9,63% lên 828.322 tỷ đồng; còn tại các công ty tài chính, cho thuê tài chính tăng đến 30,20% lên 114.370 tỷ đồng. Nhưng, điều đáng lưu ý là tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng của các khoản phải thu, đặc biệt là các khoản lãi, phí phải thu tăng ngày càng đột biến tại một số ngân hàng.
Thông thường lãi dự thu và dự chi được tính toán trên cơ sở định kỳ hàng tháng hoặc ít nhất 3 tháng/lần tùy theo điều khoản trên hợp đồng thỏa thuận giữa các TCTD và khách hàng. Nhưng hiện nay, tùy vào chu kỳ vòng quay dòng tiền của khách hàng vay, một số ngân hàng cho thời hạn ân hạn các khoản vay kéo dài hoặc cả gốc và lãi được thanh toán cuối kỳ. Mà cuối kỳ ở đây không phải là hàng tháng hay hàng quý mà có thể là 1 năm hoặc trên 1 năm tùy theo từng khoản vay.
Trong khi đối với các khoản tiền gửi tiết kiệm, có những ngân hàng kỳ hạn lên tới 60 tháng nhưng thực tế chủ yếu tập trung vào kỳ hạn 12 tháng nhận được cả gốc và lãi. Như vậy, nếu nhìn vào dòng tiền, trong khi lãi tiền gửi cho người dân đã trả thì lãi cho vay vẫn chưa nhận được nên khi tỷ lệ các khoản phải thu, dự thu này càng cao thì ngân hàng phải dùng càng nhiều chi phí để tài trợ ngược lại nhằm “nuôi” những tài sản không sinh lời. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến dòng tiền ra vào của ngân hàng.
Điều quan trọng là lãi không phù hợp với thu nhập xét về mặt dòng tiền có thể gây ra những đợt chia cổ tức “ăn trước” trong quá khứ trước đây. Do báo cáo lãi ăn trước nên các cổ đông cũ đã chia nhau cổ tức trong khi thực tế nguồn tiền thật lại chưa về. “Các ông chủ cũ đã ăn tiêu trước, nay không vay không trả được nợ thì phải dùng chính doanh thu của năm sau để bù đắp. Do đó, “một số cổ đông mới vào sau sẽ bị thiệt”, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế nhận định. Để hạn chế việc này, từ cuối năm 2015 Ngân hàng Nhà nước đã khuyến cáo các tổ chức tín dụng phải báo cáo và cân nhắc kỹ lưỡng hoặc phải có ý kiến chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước trước khi chia cổ tức cho các cổ đông nhằm đảm bảo việc chi trả cổ tức là từ lãi kinh doanh thật chứ không phải từ “lãi dự thu”.
Thực tế, câu chuyện lãi dự thu đã và đang diễn ra trên thị trường khi nhìn vào hoạt động của các ngân hàng. Một minh chứng “sống” như Eximbank, năm 2010 công bố lợi nhuận là 2.378 tỷ đồng, sang năm 2011, lợi nhuận vọt lên 4.056 tỷ đồng, nhưng sau đó con số này giảm nhanh qua các năm. Một phần của lợi nhuận biến động một cách bất thường này là do cách ghi nhận “ăn trước trả sau”.
Hay như tại SCB, do TCTD này đang thực hiện quá trình tái cơ cấu, nên một số khoản cho vay các dự án dở dang đang trong quá trình thực hiện chưa hoàn thành tạo ra lượng lãi dự thu lớn làm ảnh hưởng đến chất lượng nguồn thu của ngân hàng mặc dù việc ghi nhận này không trái so với quy định kế toán hiện hành.
Rõ ràng, câu chuyện lãi dự thu liên quan đến vấn đề phương pháp hạch toán lãi dự thu nên cần phải thay đổi từ gốc. Bởi tất cả đều hiểu là chưa có dòng tiền về thật nhưng vẫn được tính vào thu nhập của ngân hàng và nộp thuế cho phần dự thu đó, cũng như được quyền chia cổ tức trên phần lãi dự thu. Nhìn vào bản chất của vấn đề, chúng ta đều thấy hệ lụy từ việc ngân hàng đã ghi nhận không đúng thu nhập của mình hoặc quá lạc quan vào việc ghi nhận các thu nhập.
Bà Nguyễn Thùy Dương, Phó Tổng Giám đốc EY Việt Nam khẳng định, việc dự thu và dự chi là chuyện hoàn toàn bình thường của doanh nghiệp. Về lý thuyết, chi phí/thu nhập diễn ra ở kỳ kế toán nào thì phải hạch toán vào kỳ kế toán đó nên bản chất việc có các khoản lãi dự thu và dự chi đều không sai.
Thực tế, Thông tư 05/2013/TT-BTC hướng dẫn chế độ tài chính đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ban hành ngày 9/1/2013 cho phép ngân hàng tính dòng tiền trên cơ sở dự thu và dự chi vào cuối năm, rồi nộp thuế trên cơ sở này.
Cũng có những quan điểm cho rằng, lãi dự thu còn là câu chuyện liên quan đến vấn đề ngân sách, bởi khi thay đổi quy định về lãi dự thu, số tiền nộp thuế có thể bị giảm. Đây là điều khá nhạy cảm trong giai đoạn hiện tại. Tuy nhiên, về thực tế, tổng thu thuế không thay đổi bởi sau này có thu nhập các ngân hàng sẽ nộp thuế đầy đủ, còn như hiện nay đơn giản chỉ là nộp thuế trước cho một dòng tiền “dự thu” mà có thể không thu được trong thực tế sau này.
“Để bảo đảm sự lành mạnh của hệ thống, Bộ Tài chính nên cùng với NHNN nghiên cứu, đánh giá, xem xét lại thực trạng của việc ghi nhận lãi dự thu hiện nay, đồng thời củng cố, chấn chỉnh nhằm đảm bảo phản ánh đúng thực tế câu chuyện thu nhập thực sự của ngân hàng, tránh ghi nhận lãi “dự thu” cũng như việc chia cổ tức trên dòng tiền “dự thu” này”, một lãnh đạo cao cấp Vụ Pháp chế, NHNN nhấn mạnh.