|
Nợ nước ngoài của Trung Quốc cuối tháng 9/2019 đã lên tới 2.032,5 tỷ USD, đạt mức cao kỷ lục, tăng thêm 34,5 tỷ USD, tương đương 1,7% so với cuối tháng 6. |
Theo Reuter ngày 27/12, bà Vương Xuân Anh (Wang Chunying), người phát ngôn của SAFE khi trả lời câu hỏi của phóng viên được đăng trên trang web của cục này nói, quy mô nợ nước ngoài của Trung Quốc đã tăng lên, nhưng cơ cấu nợ nước ngoài vẫn tiếp tục ổn; quy mô của các khoản nợ nước ngoài nội tệ và nợ nước ngoài trung và dài hạn vẫn tiếp tục tăng ở mức ổn định. Dự kiến các chỉ số chính về rủi ro nợ nước ngoài khá ổn định, các tỷ lệ nợ nước ngoài, mức nợ và tỷ lệ trả nợ cuối năm 2019 không thay đổi nhiều so với cuối năm 2018. Bà Vương Xuân Anh nói: “Cán cân thu chi của Trung Quốc vẫn cơ bản cân bằng và cơ cấu nợ nước ngoài vẫn tiếp tục giữ được trạng thái tốt”; nhưng cũng thừa nhận "kể từ đầu năm nay, các thách thức rủi ro trong và ngoài nước đã gia tăng rõ rệt".
|
Bà Vương Xuân Anh,người phát ngôn Cục Quản lý Ngoại hối Quốc gia Trung Quốc .
|
Bà cho biết, trong tương lai, Cục Quản lý ngoại hối Quốc gia sẽ tiếp tục tăng cường đi sâu cải cách và mở cửa quản lý ngoại hối, hoàn thiện khung quản lý tổng hợp của thị trường ngoại hối “thận trọng vĩ mô + giám sát vi mô” ngăn ngừa rủi ro dòng vốn xuyên biên giới, giữ gìn an ninh kinh tế và tài chính quốc gia.
Số liệu chi tiết được công bố trên trang web của Cục Quản lý ngoại hối Quốc gia Trung Quốc cho thấy từ góc độ cơ cấu đáo hạn, số dư nợ nước ngoài trung và dài hạn là 827 tỷ USD, chiếm 41%, số dư nợ nước ngoài ngắn hạn là 1.205,5 tỷ USD, chiếm 59%. Trong số dư nợ nước ngoài ngắn hạn, tín dụng liên quan đến thương mại chiếm 43%. Từ góc độ cơ cấu tiền tệ, số dư nợ nước ngoài bằng nội tệ là 682,7 tỷ USD, chiếm 34%; số dư nợ nước ngoài bằng ngoại tệ (bao gồm phân bổ SDR - quyền rút vốn đặc biệt) là 1.349,8 tỷ USD, chiếm 66%. Trong số dư ngoại tệ đã đăng ký, số dư nợ nước ngoài bằng USD chiếm 83%, nợ bằng Euro chiếm 8%, nợ bằng HKD (đô la Hồng Kông) chiếm 5%, nợ bằng đồng Yên Nhật chiếm 2% và các khoản nợ ngoại tệ khác chiếm 2%.
Bà Vương Xuân Anh chỉ rõ, tỷ lệ nợ nước ngoài bằng nội tệ và nợ nước ngoài trung và dài hạn tăng lần lượt 3% và 6% so với cuối năm 2017. Được thúc đẩy bởi sự tăng trưởng của nợ nước ngoài trung và dài hạn, nợ nước ngoài bằng nội tệ và đặc biệt là chứng khoán nợ khi dòng vốn kiểu “chia sẻ rủi ro” chảy vào, cơ cấu nợ nước ngoài tiếp tục ổn định. Từ số liệu hàng năm, số dư nợ nước ngoài của Trung Quốc đứng thứ 13 trên thế giới vào cuối năm 2018. Tỷ lệ nợ nước ngoài là 14%, tỷ lệ nợ là 74% và tỷ lệ trả nợ là 5,5%.
|
Tính đến cuối năm 2018, tổng số nợ nước ngoài của Trung Quốc đã đứng thứ 13 thế giới.
|
Vào tháng 11 năm nay, Tập đoàn Tewoo Group Co., Ltd thuộc sở hữu nhà nước quy mô lớn ở Thiên Tân đã không trả được trái phiếu bằng đô la Mỹ 1,25 tỷ USD, trở thành doanh nghiệp nhà nước lớn nhất của Trung Quốc bội ước trái phiếu trong 20 năm qua. Tập đoàn đã đưa ra một thông báo nói, nhà đầu tư chỉ có thể chấp nhận trả chậm hoặc chấp nhận thiệt hại 64%. Tập đoàn này là một hãng buôn bán hàng hóa 100% vốn nhà nước hoàn toàn thuộc sở hữu của chính quyền thành phố Thiên Tân.
Báo cáo của Viện nghiên cứu Nomura dự đoán rằng quý II năm 2020 sẽ là giai đoạn cao điểm để các công ty Trung Quốc đại lục trả nợ trái phiếu bằng USD ở nước ngoài. Trong vòng một năm từ sau quý IV năm nay, mỗi quý có tới hơn 40 tỷ Nhân dân tệ trái phiếu USD đáo hạn, nhưng các công ty Trung Quốc phải đối mặt với khó khăn như đồng Nhân dân tệ mất giá, tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng lợi nhuận giảm sút và rủi ro tài chính ở Trung Quốc gia tăng, áp lực trả nợ gia tăng lên và rủi ro vỡ nợ cũng tăng lên.