Google Health, trải qua ba tháng hỗn loạn, đã đi đến kết cục cuối. Vào ngày 1/9, người đứng đầu bộ phận David Feinberg chính thức từ chức. Ngoài ra, Google cũng loại bỏ ứng dụng y tế trí tuệ nhân tạo Streams do DeepMind phát triển.
Trước đó, cuối tháng 6, Google Health, từng được coi là dự án quan trọng, sẵn sàng sử dụng AI để "khai hỏa" trong lĩnh vực y tế, bị truyền thông Mỹ phanh phui là đang gặp khủng hoảng và phải sa thải, tái tổ chức trên quy mô lớn.
Vào thời điểm này, chỉ ba năm trôi qua kể từ khi Google hợp nhất mảng kinh doanh sức khỏe DeepMind, thành lập bộ phận y tế và thuê Giám đốc điều hành của Trung tâm Y tế Geisinger lãnh đạo. Dù dược hỗ trợ bởi siêu đại gia công nghệ toàn cầu và đội ngũ hùng mạnh, Google Heath vẫn đang phải đối mặt với khó khăn ngành công nghiệp AI y tế.
Điều này cũng khiến nhiều người thở dài: AI y tế của Google có thực sự sắp kết thúc?
Google đặt dấu chấm hết cho Streams
Trên thực tế, ứng dụng y tế trí tuệ nhân tạo Streams mà Google Health dừng hoạt động cũng là một trong những dự án đầu tiên của họ.
Đây là ứng dụng tích hợp trí tuệ nhân tạo do DeepMind phát triển vào năm 2015. Ngày 22/11/2016, DeepMind tự hào thông báo về việc hợp tác với Bệnh viện miễn phí hoàng gia London.
Ứng dụng chủ yếu được sử dụng để giúp các bác sĩ theo dõi tổn thương thận cấp tính (AKI), một căn bệnh khó phát hiện, nhằm cải thiện độ chính xác và hiệu quả của chẩn đoán lâm sàng.
Mặc dù được phát triển bởi DeepMind kết hợp với gã khổng lồ Google, công việc mà ứng dụng Streams thực hiện chỉ là tích hợp dữ liệu bệnh nhân hiện có và sau đó cung cấp cho các bác sĩ.
Ảnh: Sina |
DeepMind cũng đề cập rằng trong 5 năm hợp tác tới, họ cũng sẽ mở rộng Streams sang các bệnh khác.
"Chúng tôi tin rằng Streams cũng có thể được sử dụng để sàng lọc nhiễm trùng huyết hoặc các bệnh suy cơ quan khác".
Bắt đầu từ năm 2017, DeepMind bắt tay vào việc mở rộng Streams. Tính đến tháng 11 năm đó, họ đã đạt được mối quan hệ hợp tác với 4 cơ sở y tế công lập, và thời gian hợp tác là 5 năm.
Vào thời điểm đó, DeepMind không phải là những người duy nhất có tham vọng về AI y tế, một trong ba gã khổng lồ của Học sâu (Deep Learning), Hinton cũng ôm tham vọng AI có thể thay thế các bác sĩ X quang trong 5 năm nữa.
Nhưng năm đó cũng là năm DeepMind bị đẩy đến nơi "đầu sóng ngọn gió".
Cơ quan quản lý quyền riêng tư dữ liệu của Anh nhận thấy rằng trong giai đoạn phát triển của Streams, đối tác Bệnh viện miễn phí hoàng gia London đã cung cấp 1,6 triệu hồ sơ chẩn đoán bệnh nhân cho DeepMind là một hành động bất hợp pháp.
Trên thực tế, sự phát triển của AI y tế không thể tách rời sự hỗ trợ của một lượng dữ liệu khổng lồ, nhưng sau khi chạm vào giới hạn đỏ về quyền riêng tư, những khó khăn mà Streams phải đối mặt lớn hơn nhiều so với tưởng tượng.
Hơn nữa, AI y tế phụ thuộc rất nhiều vào dữ liệu, nếu tập dữ liệu được chọn bị sai lệch, các phán đoán đưa ra cũng sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều. Những vấn đề này dường như đã dội một gáo nước lạnh vào DeepMind.
Năm 2018, DeepMind tuyên bố rút khỏi dự án Streams và giao cho Google tiếp quản.
Trong những năm sau đó, sự phát triển của Streams không được như mong đợi.
Ảnh: Sina |
Trong nửa đầu năm nay, nhiều cơ sở y tế công lập ở Anh cũng đã chấm dứt hợp tác với Streams và Google cũng đang lần lượt xóa dữ liệu trong Streams. Rõ ràng, Google Health đã không thành công
Trên thực tế, Streams chính là hình ảnh thu nhỏ cho sự phát triển của Google trong lĩnh vực AI y tế.
Tháng 11/2018, Google đã thành lập Google Health, hợp nhất DeepMind Health - bộ phận y tế của DeepMind và nhóm chịu trách nhiệm phát triển ứng dụng y tế Streams.
Ảnh: Sina |
Công nghệ đỉnh cao của DeepMind trong lĩnh vực AI cùng với khả năng kiếm tiền của Google khiến thế giới bên ngoài lạc quan và tin tưởng vào Google Health.
Về mặt công nghệ, DeepMind đã tích lũy nhiều năm trong lĩnh vực AI y tế.
Ngoài ứng dụng lâm sàng Streams nói trên, họ cũng đã phát triển các công nghệ có thể tầm soát ung thư vú và xác định hơn 50 bệnh về mắt.
Năm 2017, họ bắt đầu hợp tác với một số cơ sở y tế công lập ở Anh, và có hiểu biết sâu rộng về tình hình y tế tuyến đầu.
Theo một bài báo được xuất bản bởi Forbes vào thời điểm đó, Google Health sẽ thể hiện tài năng của mình trong năm lĩnh vực y tế và sức khỏe:
- Thúc đẩy sức khỏe gia đình, bao gồm quản lý sức khỏe của người dùng, theo dõi người già sống một mình,...
- Giải quyết các vấn đề y tế và chăm sóc sức khỏe thông qua giao thông vận tải, bao gồm hỗ trợ kinh doanh lái xe tự hành trong lĩnh vực y tế;
- Sử dụng dữ liệu lớn để chống lại bệnh tật và giúp mọi người có được thông tin sức khỏe dễ dàng hơn thông qua các thuật toán;
- Phát minh ra thế hệ thiết bị đeo và thiết bị theo dõi tiếp theo, đồng thời mở rộng thị phần có liên quan;
- Trở thành người đi đầu trong lĩnh vực AI y tế và đưa AI vào lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Đúng vậy, giới truyền thông thường tin rằng Google, công ty đã trở thành một gã khổng lồ trong lĩnh vực AI, cũng có thể áp dụng hoàn hảo AI vào lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và đạt được mục tiêu "dẫn đầu ngành".
Về mặt thương mại hóa, Google đã thuê David Feinberg làm trưởng bộ phận. Ông Feinberg là cựu Giám đốc điều hành của Trung tâm Y tế Geisinger, một tổ chức chăm sóc sức khỏe hàng đầu tại Mỹ.
Ông David Feinberg từng làm trưởng bộ phận y tế của Google. Ảnh: Sina |
Vào thời điểm đó, ngành công nghiệp nói chung tin rằng việc bổ nhiệm David Feinberg sẽ khiến Google trở nên mạnh mẽ hơn nữa trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe.
Nhưng thực tế là cho đến năm 2021, hoạt động kinh doanh của Google liên quan đến AI y tế vẫn chưa khởi sắc. Báo cáo tài chính quý 2 năm 2021 của Google cho thấy các hoạt động kinh doanh của Google, bao gồm trí tuệ nhân tạo DeepMind và y tế thông minh Verily, vẫn thua lỗ.
Ảnh: Sina |
Bên cạnh ứng dụng Streams gây tranh cãi, mảng kinh doanh kiểm soát bệnh võng mạc do tiểu đường mà Google Health tập trung sau khi thành lập cũng gặp không ít rắc rối trong quá trình triển khai.
Theo một nghiên cứu được Google công bố trên Tạp chí Hiệp hội Y khoa Mỹ (JAMA), các thuật toán AI đã đóng vai trò to lớn trong nghiên cứu này, giúp độ chính xác của công cụ này đạt tới 90%, về mặt lý thuyết chỉ trong vài giây. Kết quả là "có thể so sánh với kết quả chẩn đoán của bác sĩ nhãn khoa".
Năm 2020, Google đã hợp tác với Bộ Y tế Công cộng Thái Lan để cài đặt công cụ này tại 11 phòng khám ở Thái Lan.
Ảnh: Sina |
Tuy nhiên, do yêu cầu của thuật toán kiểm tra ảnh rất cao nên tỷ lệ chính xác không được như mong đợi, ngoài ra, tín hiệu mạng của bệnh viện địa phương không tốt, từ khi tải ảnh lên đến khi có kết quả thường mất nhiều thời gian, do đó, bệnh nhân sẵn sàng tìm kiếm chẩn đoán từ bác sĩ hơn.
Liệu AI y tế có thực sự kết thúc?
Ảnh: Sina |
Trên thực tế, không chỉ Google, một gã khổng lồ khác cũng thường xuyên thất vọng trong ngành AI y tế trong những năm gần đây.
Bộ phận Watson Health của IBM chủ yếu sử dụng AI để giúp các bệnh viện, công ty bảo hiểm và công ty dược phẩm quản lý dữ liệu và hỗ trợ chẩn đoán.
Nhưng trong 6 năm kể từ khi thành lập, doanh thu hàng năm chỉ đạt 1 tỉ USD, chiếm chưa đến 2% tổng doanh thu của công ty, và hiện vẫn chưa có lãi. Tuy nhiên, trước đó, IBM đã chi hơn 4 tỉ USD để mua lại Waston.
Không giống như Google Health chỉ có hàng trăm nhân sự, Watson Health thậm chí còn đạt 10.000 người vào năm 2016.
Tuy nhiên, theo thống kê của IEEESpectrum, trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến 2019, trong số 25 dự án tiêu biểu mà IBM Watson hợp tác với các tổ chức khác, chỉ có 5 dự án hợp tác ra mắt các sản phẩm AI y tế.
Chưa dừng lại ở đó, năm 2018, Watson còn bị phanh phui việc kê nhầm thuốc cho bệnh nhân, có thể gây tử vong trong trường hợp nặng.
Lộ trình của IBM không phải là sử dụng hình ảnh y tế, mà sử dụng Xử lý Ngôn ngữ Tự nhiên - NLP (Natural Language Processing) để hiểu các văn bản y tế. Ngay cả người đoạt giải Turing Award - giáo sư Yoshua Bengio cũng không lạc quan về mô hình của IBM.
Trong các tệp văn bản y tế, hệ thống trí tuệ nhân tạo không thể hiểu những vấn đề mơ hồ, cũng như khó phát hiện những manh mối tinh vi mà các bác sĩ có thể nhận thấy.
Con đường AI y tế thực sự khó đi?
Đánh giá từ phản ứng của Google, ít nhất họ đã không bỏ cuộc. Trong một tuyên bố, Google đã nói rõ: Hãy tin vào sức mạnh của công nghệ trong việc cải thiện sức khỏe. Hơn nữa, Google cũng đề cập đến việc tăng cường đầu tư vào lĩnh vực y tế.
Giám đốc bộ phận AI tại Google Jeff Dean cũng đề cập rằng thương hiệu Google Health sẽ vẫn tồn tại, nhưng sẽ không còn hoạt động như một tổ chức thống nhất mà các nhóm ban đầu sẽ được chia thành vào các bộ phận khác nhau.
Ví dụ: các nhóm đang phát triển các công cụ tìm kiếm để giúp bác sĩ tìm kiếm hồ sơ sức khỏe bệnh nhân dễ dàng hơn sẽ được giao cho bộ phận nghiên cứu của Google; các nhóm tập trung vào hình ảnh y tế AI sẽ phân vào bộ phận tìm kiếm và trí tuệ nhân tạo của Google.
Ngoài ra, các dự án theo dõi dữ liệu sức khỏe và các dự án y tế khác sẽ tiếp tục phát triển.
Theo Sina