Ngành Văn hóa Việt Nam 80 năm đồng hành cùng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc

Tạp chí VietTimes trân trọng giới thiệu bài viết "Ngành Văn hóa Việt Nam 80 năm đồng hành cùng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc" của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch Nguyễn Văn Hùng.

Trong sắc Thu tháng Tám lịch sử, hòa chung niềm hân hoan, phấn khởi của triệu triệu người con đất Việt hướng về kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025) - Một sự kiện trọng đại của dân tộc, những người làm công tác văn hóa, thông tin, thể thao và du lịch trên khắp mọi miền Tổ quốc được đón nhận thêm niềm vui, niềm tự hào khi ngành Văn hóa cũng tròn 80 mùa Thu cách mạng (28/8/1945 - 28/8/2025).

anh-su-kien-bai-bt-6821.jpg
Nhiều chương trình nghệ thuật đặc sắc được công diễn chào mừng các ngày lễ lớn của đất nướcẢnh: Tuấn Minh

Tuyên cáo ngày 28/8/1945 của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong nội các quốc gia, Bộ Thông tin, Tuyên truyền được thành lập. Để phù hợp với từng chặng đường phát triển của lịch sử dân tộc, theo chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Bộ được sắp xếp theo nhiều mô hình tổ chức và tên gọi khác nhau như: Nha Thông tin Tuyên truyền, Bộ Văn hóa, Bộ Văn hóa - Thông tin… và nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL). Dù với mô hình tổ chức nào, dưới tên gọi nào, Ngành Văn hóa luôn nỗ lực, quyết tâm thực thi nhiệm vụ, giữ vững vị trí, vai trò và sứ mệnh thiêng liêng “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Tám thập kỷ đã qua, dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng; sự quản lý, điều hành quyết liệt, hiệu quả của Nhà nước, ngành Văn hóa Việt Nam đã hòa nhịp vào cuộc trường chinh bách chiến, bách thắng, viết nên những trang vàng chói lọi, đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.

1. Văn hóa trong tiến trình đấu tranh cách mạng, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước

Ngay từ buổi đầu cách mạng còn trong gian khó, khi non sông chưa giành được độc lập, Đảng ta đã xác định vị trí, vai trò đặc biệt của văn hóa và đặt văn hóa ở vị trí trọng yếu trong chiến lược đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đề cương về Văn hóa Việt Nam năm 1943, do Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo đã xác lập hệ tư tưởng, nguyên tắc, phương pháp luận và định hướng chiến lược cho nền văn hóa Việt Nam. Đề cương đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa: “Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả” (1); đồng thời khẳng định: “Cách mạng văn hóa ở Việt Nam phải dựa vào cách mạng dân tộc giải phóng mới có điều kiện phát triển” (2), hướng tới xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Ba nguyên tắc nền tảng của văn hóa Việt Nam được Đảng ta xác định là: Dân tộc, Khoa học, Đại chúng phù hợp với quy luật thực tiễn của cách mạng nước ta và vẫn còn vẹn nguyên giá trị thời sự cho tới ngày nay. Với ba nguyên tắc này, Đề cương không chỉ mở đường cho một nền văn hóa mới - nền văn hóa cách mạng, mà còn xác định rõ văn hóa là một trong ba mặt trận, để từ đó: Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”(3). Đó cũng là ngọn đuốc lý luận soi đường để các thế hệ cán bộ ngành Văn hóa không ngừng phấn đấu vì một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Sinh hoạt văn nghệ của cơ quan trong kháng chiến chống Pháp. Ảnh tư liệu

Sinh hoạt văn nghệ của cơ quan trong kháng chiến chống Pháp. Ảnh tư liệu

Khi bản Đề cương về Văn hóa Việt Nam ra đời, công cuộc cách mạng văn hóa dân tộc chính thức bước sang một chặng đường lịch sử mới, gắn bó chặt chẽ và phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do. Dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa đã trở thành một vũ khí tư tưởng quan trọng, góp phần hiệu triệu, quy tụ sức mạnh toàn dân để làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - sự kiện lịch sử, mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc. Không khí hào hùng của những năm tháng đó còn ngân vang mãi trong những khúc nhạc như Tiến quân ca của Văn Cao, Diệt phát xít của Nguyễn Đình Thi, hay Mười chín tháng Tám của Xuân Oanh. Sau ngày độc lập, công tác tuyên truyền, cổ động trở thành động lực để tái thiết đất nước, bài trừ nạn mù chữ, nâng cao dân trí. Ngay trong thời điểm cam go nhất của kháng chiến chống Pháp, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Với phương châm “kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”, công tác báo chí, thông tin, tuyên truyền được đẩy mạnh; các loại hình nghệ thuật như ca khúc cách mạng, thơ ca, kịch nói... nở rộ, thổi bùng ngọn lửa yêu nước và ý chí chiến đấu. Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Người căn dặn: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Thực hiện lời dạy của Bác, các văn nghệ sĩ, những người làm công tác văn hóa đã vượt qua muôn vàn gian khổ, mang đến sức mạnh tinh thần to lớn, góp phần vào chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu năm 1954.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975), văn học nghệ thuật phát triển sôi nổi, phản ánh đời sống chiến đấu, lao động sản xuất ở miền Bắc và tinh thần bất khuất của nhân dân miền Nam. Một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa dần hình thành với sự ra đời của các thiết chế như nhà hát, rạp chiếu bóng, thư viện, bảo tàng... phục vụ đông đảo nhân dân và góp phần xây dựng con người mới XHCN. Ngay cả trong bối cảnh chiến tranh, vẫn có sự tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại, nhất là từ các nước XHCN, làm giàu thêm đời sống tinh thần của dân tộc. Hòa nhịp với dòng thác cách mạng, nhiều văn nghệ sĩ, nhà báo - chiến sĩ đã lên đường, mang theo khí thế hào sảng trong câu thơ Tố Hữu: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Những phong trào như “tiếng hát át tiếng bom”, những trang viết, vần thơ, khúc nhạc ra đời từ thực tiễn đã khơi dậy tinh thần chiến đấu, góp phần đưa dân tộc đến đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (1961). Ảnh tư liệu

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (1961). Ảnh tư liệu

Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, văn hóa - thông tin thực sự trở thành vũ khí tinh thần sắc bén, khơi nguồn lòng yêu nước, hun đúc ý chí kiên cường và củng cố niềm tin vào thắng lợi của cách mạng. Văn nghệ sĩ và báo chí cách mạng đã hòa mình vào đời sống chiến đấu, “lấy bút làm gươm”, biến nghệ thuật thành vũ khí. Họ chính là những “chiến sĩ” trên trận tuyến văn hóa - tư tưởng, hoặc trực tiếp tham gia chiến đấu, hoặc sáng tác để động viên tinh thần kháng chiến. Thơ ca, nhạc, kịch, hội họa, điện ảnh, báo chí… đều mang hơi thở chiến trường, phản ánh sự quả cảm, lòng trung kiên và niềm tin sắt son vào ngày thắng lợi, thậm chí, như đánh giá của nhà thơ Phạm Tiến Duật, “có sức mạnh của một sư đoàn”.

Quá trình phát triển của ngành Văn hóa trong giai đoạn này thể hiện ở bản lĩnh chính trị, khả năng thích ứng và sự kiên định giữa bom đạn. Văn hóa giờ đây không chỉ là công cụ tuyên truyền, mà còn trở thành nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, cổ vũ quân và dân ta đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Không ít văn nghệ sĩ, nhà báo, đạo diễn, quay phim đã hy sinh nơi chiến trường, để lại những tác phẩm, thước phim, trang viết vô giá. Máu của họ đã hòa vào lịch sử, làm rạng rỡ thêm truyền thống anh hùng vẻ vang của dân tộc và ngành Văn hóa Việt Nam.

2. Văn hóa - nền tảng tinh thần và động lực phát triển kinh tế - xã hội trong xây dựng và phát triển đất nước

Đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc, qua đó vị trí, vai trò của văn hóa ngày càng được bồi đắp và nâng lên tầm cao mới

Sau ngày thống nhất (30-4-1975), đất nước Việt Nam bước vào thời kỳ phục hồi và tái thiết với muôn vàn khó khăn. Trong bối cảnh ấy, văn hóa tiếp tục khẳng định vị trí là nguồn lực tinh thần to lớn, góp phần hàn gắn những vết thương chiến tranh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, khơi dậy khát vọng kiến thiết một đất nước hòa bình, ấm no, hạnh phúc. Trên khắp mọi miền, các thiết chế văn hóa được củng cố, bộ máy ngành Văn hóa - Thông tin được tăng cường. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở lan tỏa sâu rộng tới từng nhà máy, xí nghiệp, lâm trường, cơ quan, làng xã… trở thành điểm tựa tinh thần và môi trường nuôi dưỡng con người mới xã hội chủ nghĩa.

Bước ngoặt lịch sử đến vào năm 1986, khi Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước. Cùng với việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở rộng hội nhập quốc tế, công tác quản lý văn hóa cũng được đổi mới mạnh mẽ để phù hợp với yêu cầu mới. Hệ thống chính sách phát triển văn hóa ra đời đã góp phần giải quyết những khó khăn cho các hoạt động văn hóa, huy động được nhiều nguồn lực xã hội, đặc biệt trong triển khai tu bổ di tích, xây dựng công trình văn hóa, thể thao… tạo sức sống mới cho các hoạt động văn hóa, thông tin, thể thao trên khắp cả nước.

Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tổ chức ngày 24-11-2021, đã tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, nâng cao nhận thức trong toàn hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa. Ảnh: Tuấn Minh

Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tổ chức ngày 24-11-2021, đã tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, nâng cao nhận thức trong toàn hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa. Ảnh: Tuấn Minh

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã khẳng định rõ: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ quan điểm đó, nhiều nghị quyết của Trung ương tiếp tục thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến văn hóa. Trong đó, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) - nghị quyết đầu tiên của Đảng chuyên đề về văn hóa, đã nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là mục tiêu và động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp đó, Nghị quyết số 23-NQ/TW khóa X (2008) đã đưa ra định hướng đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, coi đây là lĩnh vực đặc biệt tinh tế của văn hóa, góp phần quan trọng vào việc bồi đắp nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam. Đến Nghị quyết số 33-NQ/TW khóa XI (2014) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần các giá trị dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa được xác định là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là nguồn sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Có thể nói, các nghị quyết này chính là những định hướng chiến lược, tạo cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới.

Đặc biệt, Hội nghị Văn hóa toàn quốc nhằm triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tổ chức ngày 24-11-2021, đã trở thành một dấu mốc quan trọng. Đây là hội nghị văn hóa toàn quốc đầu tiên được tổ chức sau 75 năm kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất năm 1946. Sự kiện này đã tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, nâng cao nhận thức trong toàn hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển đất nước. Trên tinh thần đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: phải đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội trong tiến trình phát triển quốc gia.

Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi gặp mặt các đại biểu văn nghệ sĩ ngày 30-12-2024. Ảnh: Trần Huấn

Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi gặp mặt các đại biểu văn nghệ sĩ ngày 30-12-2024. Ảnh: Trần Huấn

Những thành tựu quan trọng của văn hóa và vai trò của ngành Văn hóa trong sự nghiệp đổi mới đất nước

Trải qua gần 40 năm đổi mới, có thể nói rằng đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Ngành Văn hóa rất tự hào khi thực sự đóng góp tích cực vào những thành tựu to lớn, phát triển vượt bậc của đất nước sau gần 40 năm đổi mới.

Trước hết, dưới ánh sáng từ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước qua 40 năm đổi mới, nhất là trong thời gian gần đây, đã làm thay đổi căn bản nhận thức và hành động của các cấp ủy đảng, chính quyền, người dân và cộng đồng doanh nghiệp về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Trên hầu hết các diễn đàn, hội nghị quan trọng của Trung ương, địa phương và trong quan hệ quốc tế, văn hóa luôn được hiện diện là một trong những trụ cột trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo đó nhận thức và thực hành văn hóa trong các cán bộ, đảng viên và nhân dân đã có sự thay đổi căn bản về chất; thực hành văn hóa hướng tới những giá trị “chân, thiện, mỹ” ngày càng được phổ quát sâu hơn trong đời sống xã hội. Nhận thức đúng dẫn đến những hành động đẹp, cụ thể, quyết liệt và sáng tạo. Các chỉ tiêu, chỉ số về phát triển văn hóa, gia đình, con người, thông tin, thể thao và du lịch trong văn kiện đại hội đảng các cấp, trong chương trình/kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương chưa bao giờ được đề cập đầy đủ, toàn diện, kỹ lưỡng như trong thời gian qua. Trong đó, đầu tư cho văn hóa ở một số địa phương trong giai đoạn 2020-2025 đạt tỷ lệ trên 2%, nhiều địa phương đạt trung bình 3-4%/ năm tổng chi ngân sách.

Hai là, công tác xây dựng thể chế luôn được đặc biệt quan tâm. Toàn Ngành đã quyết liệt thay đổi tư duy từ “làm văn hóa” sang “quản lý nhà nước về văn hóa” thông qua công cụ pháp luật. Bộ VHTTDL đã chủ động rà soát, nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền hoàn thiện thể chế, chính sách, xử lý nhiều “điểm nghẽn, khoảng trống về mặt pháp lý”, thúc đẩy phát triển theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Hiện nay, hệ thống pháp luật về văn hóa, thể thao, du lịch, báo chí và xuất bản đã có 425 văn bản quy phạm pháp luật, điều chỉnh trực tiếp: 15 luật, 74 Nghị định, Nghị quyết, 42 Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, 294 Thông tư liên tịch và Thông tư. Riêng trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Bộ VHTTDL đã chủ trì xây dựng ban hành, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành, hoàn thiện 124 văn bản quy phạm pháp luật. Trong đó, có 5 Luật, 1 Nghị quyết của Quốc hội, 30 Nghị định của Chính phủ, 1 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 87 Thông tư. Điểm nhấn đặc biệt quan trọng là tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã ban hành Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035. Đồng thời, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều chiến lược, quy hoạch phát triển Ngành với tầm nhìn dài hạn 10 năm, 20 năm. Đây là minh chứng cho tầm nhìn chiến lược, giúp văn hóa, thông tin, thể thao và du lịch Việt Nam hội tụ bản sắc và tỏa sáng, bứt tốc trong “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”.

Trong bối cảnh tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, ngành Văn hóa đã tham mưu ban hành nhiều văn bản quan trọng về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền trong lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể thao và du lịch. Qua đó, tiếp tục khẳng định sự chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy và hành động của toàn Ngành để dòng chảy văn hóa thấm sâu vào từng mạch nguồn đời sống, gắn kết văn hóa cộng đồng, vùng miền, làng, xã… tạo thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hun đúc bản lĩnh, khơi dậy khát vọng phát triển và xây dựng một Việt Nam hùng cường.

Ba là, công tác xây dựng môi trường văn hóa ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” đã diễn ra sôi nổi ở địa bàn dân cư, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp với nhiều hoạt động thiết thực. Các hoạt động văn hóa lấy người dân làm chủ thể, vừa là người thụ hưởng đồng thời cũng là chủ thể sáng tạo văn hóa. Thông qua các hương ước, quy ước, trên cơ sở tự nguyện, tự quản, đã điều chỉnh các mối quan hệ, góp phần hình thành nên nhiều làng văn hóa, khu dân cư văn hóa, gia đình văn hóa tiêu biểu; nhiều lễ hội được phục hồi, duy trì; các thiết chế cơ sở như nhà văn hóa, thư viện… phát huy công năng, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống, nâng cao dân trí, bồi đắp lối sống văn minh, lành mạnh.

Bốn là, hệ thống di sản văn hóa Việt Nam chưa bao giờ được thế giới biết đến sâu rộng như giai đoạn hiện nay. Hiện cả nước có hơn 40.000 di tích và gần 70.000 di sản văn hóa phi vật thể được kiểm kê, trong đó có 36 di sản được UNESCO công nhận/ ghi danh. Bên cạnh việc thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật và cam kêt v́ ới UNESCO, chúng ta đã quan tâm đầu tư, tu bổ di tích; khai thác hiệu quả, gắn kết với phát triển du lịch, qua đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội các địa phương.

Năm là, các ngành công nghiệp văn hóa đã được định hướng phát triển theo phương châm “sáng tạo - bản sắc - độc đáo - chuyên nghiệp - cạnh tranh”, trở thành hướng đi đúng đắn trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Nhiều sự kiện văn hóa, nghệ thuật quy mô cấp quốc gia, tầm cỡ quốc tế có chất lượng nghệ thuật cao, phục vụ nhiệm vụ chính trị, đồng thời đáp ứng tốt nhu cầu thụ hưởng nghệ thuật ngày càng cao của người dân. Các sự kiện âm nhạc, điện ảnh do cơ quan truyền thông, doanh nghiệp tổ chức tại Việt Nam quy tụ nhiều nghệ sĩ nổi tiếng trên thế giới biểu diễn đã thu hút hàng triệu lượt khán giả, góp phần kích cầu du lịch. Trong giai đoạn 2015-2025, các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp từ 4 - 4,5% vào GDP của đất nước. Đây là những kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn về nguồn lực và ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.

Sáu là, công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc thiểu số đã được triển khai hiệu quả, giúp thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền với nhiều chính sách bảo tồn, xây dựng các mô hình văn hóa. Bộ VHTTDL đã phối hợp với các địa phương định kỳ tổ chức ngày hội, liên hoan văn hóa, thể thao và du lịch cho đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng, miền cũng như tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam đã góp phần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân.

Công tác văn hóa đối ngoại không ngừng được tăng cường, mở rộng - trong ảnh: Trước sự chứng kiến của Tổng Bí thư Tô Lâm và Tổng thống Hàn Quốc Lee Jae Myung, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng và Bộ trưởng Bộ VHTTDL Hàn Quốc Chae Hwi Young đã ký kết Bản ghi nhớ hợp tác về quyền tác giả, quyền liên quan giữa hai bộ, trong khuôn khổ chuyến thăm cấp Nhà nước tới Đại Hàn Dân quốc của Tổng Bí thư Tô Lâm (tháng 8- 2025). Ảnh: TTXVN

Công tác văn hóa đối ngoại không ngừng được tăng cường, mở rộng - trong ảnh: Trước sự chứng kiến của Tổng Bí thư Tô Lâm và Tổng thống Hàn Quốc Lee Jae Myung, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng và Bộ trưởng Bộ VHTTDL Hàn Quốc Chae Hwi Young đã ký kết Bản ghi nhớ hợp tác về quyền tác giả, quyền liên quan giữa hai bộ, trong khuôn khổ chuyến thăm cấp Nhà nước tới Đại Hàn Dân quốc của Tổng Bí thư Tô Lâm (tháng 8- 2025). Ảnh: TTXVN

Bảy là, văn hóa đối ngoại được chuyển đổi mạnh mẽ từ “gặp gỡ, giao lưu” sang “hợp tác đích thực”. Theo đó, đã triển khai ký kết hợp tác quốc tế về văn hóa, thông tin, thể thao và du lịch ở nhiều cấp độ.

Văn hóa, nghệ thuật Việt Nam hiện diện ngày càng sâu đậm trong các diễn đàn cả song phương và đa phương. Lần đầu tiên Việt Nam đảm nhận cương vị tại 6 cơ chế điều hành then chốt của UNESCO. Đã tổ chức thành công hàng trăm Tuần/Ngày văn hóa, lễ hội văn hóa, du lịch Việt Nam ở nước ngoài, góp phần xây dựng thương hiệu, phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và nâng cao vị thế của đất nước; nâng cao chỉ số sức mạnh mềm của Việt Nam trên trường quốc tế.

Tám là, thể thao Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ. Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển sâu rộng, thu hút đông đảo người dân tham gia, nâng cao sức khỏe cộng đồng. Thể thao thành tích cao gặt hái nhiều thành công trên đấu trường khu vực và quốc tế, mang lại niềm tự hào dân tộc, truyền cảm hứng mạnh mẽ cho toàn xã hội. Lần đầu tiên, Việt Nam hai lần liên tiếp dẫn đầu hai kỳ SEA Games, đặc biệt lần đầu tiên giành được ngôi nhất toàn Đoàn tại một kỳ Đại hội tổ chức ở nước bạn. Bóng đá Việt Nam và các môn thi đấu quan trọng khác có những khởi sắc như: đội tuyển Bóng đá nữ giành quyền tham dự World Cup nữ 2023; đội tuyển Bóng đá U23 nam quốc gia và Bóng đá nữ giành huy chương vàng SEA Games; đội tuyển U23 đoạt ngôi Á quân giải U23 châu Á năm 2018… và nhiều danh hiệu khu vực, châu lục và quốc tế cao quý khác.

Chín là, du lịch trở thành điểm sáng trong bức tranh kinh tế đất nước sau đại dịch COVID-19. Trong giai đoạn vừa qua, Việt Nam liên tiếp được vinh danh là điểm đến hàng đầu về du lịch ở châu Á và thế giới. Du lịch ngày nay không chỉ là cầu nối đưa bản sắc Việt Nam vươn ra thế giới, mà còn là hành trình tiếp nhận tinh hoa nhân loại, để văn hóa Việt Nam hội tụ và tỏa sáng trong dòng chảy văn hóa toàn cầu.

Mười là, công tác báo chí, truyền thông, xuất bản đã thực hiện tốt vai trò là tiếng nói của Đảng, Nhà nước và diễn đàn của nhân dân, kịp thời tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước. Báo chí đã tích cực đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, phản bác những luận điểm sai trái, thù địch; đồng thời, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Các đơn vị xuất bản đã đa dạng hóa sản phẩm với việc đẩy mạnh chuyển đổi mô hình kinh doanh truyền thống sang ứng dụng công nghệ, đồng thời phát triển các kênh thương mại điện tử để phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của bạn đọc.

Với những thành tích xuất sắc đạt được trong 80 năm qua, ngành Văn hóa đã được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh...

Đạt được những thành tựu trên là nhờ có sự quan tâm sâu sắc, toàn diện của Trung ương Đảng, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư; sự quan tâm đồng hành, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Quốc hội; sự chỉ đạo quyết liệt, sáng suốt, linh hoạt của Đảng ủy Chính phủ, Chính phủ, và trực tiếp là đồng chí Thủ tướng Chính phủ; sự phối hợp chặt chẽ của các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương, sự đồng thuận, giúp đỡ của các tầng lớp Nhân dân. Bên cạnh đó là sự chung sức, đồng lòng, nỗ lực phấn đấu vì sự nghiệp cao cả của các thế hệ cán bộ ngành Văn hóa qua các thời kỳ; sự nhạy bén, sáng tạo, quyết liệt của tập thể Ban Cán sự Đảng, Đảng ủy và Lãnh đạo Bộ VHTTDL đã chủ động tham mưu kịp thời với Đảng, Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết, chính sách pháp luật quan trọng về văn hóa; sự hợp tác, ủng hộ của bạn bè quốc tế đã tạo sức mạnh to lớn, cùng đồng tâm, đồng lòng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng thẳng thắn thấy rằng, ngành Văn hóa vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn, thách thức: nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững đất nước ở một số địa bàn, vùng miền, địa phương, cơ quan, đơn vị vẫn chưa thật sự thấm sâu, đầy đủ và toàn diện; việc thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi trong một số lĩnh vực vẫn còn khoảng trống. Còn khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền, giai tầng. Nguồn lực đầu tư của toàn xã hội cho văn hóa, thể thao, du lịch, báo chí, xuất bản năm sau cao hơn năm trước song còn thấp hơn so với nhu cầu thực tế. Thể thao chuyên nghiệp, thể thao thành tích cao phát triển chưa bền vững. Du lịch còn thiếu sản phẩm du lịch đẳng cấp, độc đáo, tạo sự khác biệt trong cạnh tranh quốc tế. Báo chí đang đối mặt với áp lực chuyển đổi số và bảo vệ luồng thông tin chính thống. Nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu so với yêu cầu, nhiệm vụ.

3. Những định hướng phát triển văn hóa trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới với nhiều yêu cầu, đòi hỏi mới mà “bộ tứ” nghị quyết của Đảng (Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24-1-2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4-5-2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân) là trụ cột quan trọng để đưa đất nước cất cánh.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định:Nhìn về tương lai, chúng ta xác định rõ: muốn phát triển nhanh và bền vững, Việt Nam không thể đi theo lối mòn cũ. Chúng ta phải dám nghĩ lớn, hành động lớn, thực hiện những cải cách lớn với quyết tâm chính trị cao nhất và nỗ lực bền bỉ nhất. Bốn Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị ban hành trong thời gian gần đây sẽ là những trụ cột thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước ta tiến lên trong kỷ nguyên mới, hiện thực hóa tầm nhìn Việt Nam phát triển, thu nhập cao vào năm 2045” (4).

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng, cùng các đại biểu xem nghệ nhân trình diễn trong không gian trưng bày ảnh về thành tựu của ngành VHTTDL năm 2023 - Ảnh: Nam Nguyễn

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng, cùng các đại biểu xem nghệ nhân trình diễn trong không gian trưng bày ảnh về thành tựu của ngành VHTTDL năm 2023 - Ảnh: Nam Nguyễn

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng, cùng các đại biểu xem nghệ nhân trình diễn trong không gian trưng bày ảnh về thành tựu của ngành VHTTDL năm 2023 - Ảnh: Nam Nguyễn

Để văn hóa thực sự phát triển mạnh mẽ, xứng đáng với tầm vóc và vị thế của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, chúng ta cần quyết tâm thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, toàn ngành Văn hóa nghiêm túc triển khai thực hiện quyết liệt quan điểm chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cũng như bốn nghị quyết trụ cột đột phá. Tham mưu để Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về Chấn hưng và phát triển văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên mới để xác định hướng đi, tầm nhìn lâu dài, chiến lược cho văn hóa phát triển trong kỷ nguyên giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng, vươn mình của dân tộc. Tập trung hoàn thiện thể chế, giải quyết những vướng mắc, bất cập, tháo gỡ “nút thắt”, điểm nghẽn và khơi thông mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa, thể thao, du lịch.

Thứ hai, tiếp tục quán triệt sâu sắc những quan điểm của Đảng ta về văn hóa. Trong đó, tiếp tục nhận thức rõ: xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ giữ vai trò quan trọng. Phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì. Trong tổ chức triển khai công việc, chuyển mạnh mẽ tư duy từ làm văn hóa sang kiến tạo, phục vụ phát triển văn hóa; thấm nhuần quan điểm chỉ đạo của lãnh đạo Bộ VHTTDL: “Văn hóa là nền tảng - Thông tin là mạch dẫn - Thể thao là sức mạnh - Du lịch là nhịp cầu kết nối”; “Bộ hướng dẫn, Sở đồng hành vì một sứ mệnh chung”. Tiếp tục thực hiện tinh gọn bộ máy, nâng cao năng, hiệu lực, hiệu quả. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo hướng “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Phân công nhiệm vụ theo hướng “6 rõ” như chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính: rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền.

Thứ ba, xây dựng môi trường văn hóa theo hướng thực chất, hiệu quả, tránh phô trương, hình thức để làm cho văn hóa ngày càng thấm sâu vào đời sống xã hội, tập trung ở địa bàn dân cư, cơ quan, doanh nghiệp, khu phố, thôn xóm... Tiếp tục triển khai “Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới” trong xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa. Tăng cường đầu tư cho các thiết chế văn hóa cơ sở phù hợp với đặc thù văn hóa vùng miền, đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo… để phát huy hiệu quả, công năng sử dụng. Đồng thời, chú trọng xây dựng môi trường văn hóa số trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đấu tranh phòng chống suy thoái tư tưởng đạo đức, lối sống; nhân rộng kịp thời các mô hình hay, gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến.

Thứ tư, đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp văn hóa để tạo sức mạnh mềm quốc gia. Ưu tiên tập trung đầu tư cho các ngành Điện ảnh, Nghệ thuật biểu diễn, Du lịch văn hóa, Công nghiệp giải trí…với việc trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách ưu đãi hỗ trợ về thuế, đất đai, tín dụng… để huy động các nguồn lực xã hội đầu tư; tăng cường chuyển đổi số, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trình Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045, để tạo những bước đi căn bản trong thời gian tới.

Thứ năm, phát triển thể thao theo hướng chuyên nghiệp, bền vững. Theo đó, làm tốt công tác thể thao quần chúng, qua đó nâng cao sức khỏe, thể chất cho mọi người dân, đồng thời tạo nguồn, chọn lựa những nhân tố mới cho thể thao chuyên nghiệp, thành tích cao. Cải thiện chế độ, chính sách đối với vận động viên, huấn luyện viên; tập trung các nguồn lực và công nghệ hiện đại để đầu tư cho vận động viên thành tích cao được cọ xát, nâng cao trình độ chuyên môn, đủ sức đạt huy chương trên đấu trường khu vực, châu lục và quốc tế.

Thứ sáu, phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đủ sức cạnh tranh với các nước trong khu vực theo hướng chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu quả. Chú trọng phát triển du lịch văn hóa, khai thác hiệu quả du lịch đêm, ưu tiên phát triển sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng biển, đảo và du lịch thể thao, giải trí biển đủ sức cạnh tranh quốc tế. Tiếp tục đổi mới công tác quảng bá xúc tiến theo hướng đa dạng hóa, kết hợp cả xúc tiến cả thực địa và trên không gian mạng, khai thác có hiệu quả xúc tiến thông qua điện ảnh, lễ hội văn hóa tại nước ngoài. Bên cạnh đó, đẩy mạnh chuyển đổi số và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Thứ bảy, tăng cường công tác quản lý báo chí, truyền thông, xuất bản phát triển đúng định hướng “nhân văn, chuyên nghiệp, hiện đại”. Tạo môi trường để báo chí, truyền thông tuyên truyền sâu rộng chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với người dân nhanh nhất, hiệu quả nhất. Đồng thời, báo chí, xuất bản đóng góp có hiệu quả vào công tác giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, quảng bá hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam ra thế giới. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong các cơ quan báo chí, xuất bản và trong công tác quản lý báo chí, xuất bản. Có cơ chế chính sách để các cơ quan báo chí, xuất bản hoạt động hiệu quả về kinh tế, thích ứng với xu thế báo chí, xuất bản hiện đại. Tiếp tục tổ chức Giải Báo chí toàn quốc “Vì sự nghiệp phát triển văn hóa Việt Nam” chất lượng, có uy tín, lan tỏa hơn nữa các giá trị văn hóa đến với công chúng.

Tự hào truyền thống vẻ vang 80 năm của ngành Văn hóa, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại - Người đặt nền móng cho nền văn hóa Việt Nam hiện đại; vững niềm tin sắt son vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước; sự hỗ trợ, giúp đỡ của các tầng lớp Nhân dân và công lao, đóng góp của các thế hệ cán bộ ngành Văn hóa qua các thời kỳ. Với phương châm “Quyết liệt hành động, khát vọng cống hiến” và tuyên ngôn hành động “Văn hóa là nền tảng - Thông tin là mạch dẫn - Thể thao là sức mạnh - Du lịch là nhịp cầu kết nối”, toàn Ngành quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó, đưa sự nghiệp phát triển văn hóa bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với những thành tựu mới, dấu ấn mới góp phần xây dựng đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ kính yêu hằng mong ước.

-----------

1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr. 319.

4. Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại hội nghị triển khai Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68, chinhphu.vn, 21-5-2025.

NGUYỄN VĂN HÙNG

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,

Bí thư Đảng ủy Bộ, Bộ trưởng Bộ VHTTDL