|
Tổng thống Mỹ Barack Obama trong một cuộc gặp hiếm hoi với Tổng thống Nga Vladimir Putin bên lề một hội nghị G-20 sau khi nổ ra khủng hoảng Ukraine |
(tiếp theo kỳ trước)
Ukraine năm 2016
Động lực của một cuộc khủng hoảng tiềm tàng ở Ukraine năm 2016 sẽ được xác định bằng tình hình chính trị ở Kiev. Trong việc thực hiện các Hiệp định Minsk, quả bóng từ lâu đã nằm ở phía Ukraine. Trong nửa đầu năm nay, Ukraine sẽ sửa đổi hiến pháp mà sẽ thiết lập một vị thế đặc biệt cho vùng Donbass trong quốc gia và thiết lập các quy tắc cho các cuộc bầu cử địa phương ở một số khu vực vùng Donetsk và Luhansk. Về mặt lý thuyết, ban lãnh đạo Ukraine có thể đồng ý giải quyết xung đột, mặc dù suốt năm qua, giới lãnh đạo đã cố gắng hết sức tránh điều này. Trên thực tế, vẫn rất không có khả năng họ sẽ làm điều đó.
Các cuộc bầu cử thành phố mới nhất cho thấy Tổng thống Petro Poroshenko đã bỏ lỡ việc này khi ông được toàn quyền ban hành các cải cách. Giờ đây tỷ lệ ủng hộ ông đang giảm dần, liên minh cầm quyền đang yếu đi và vị thế của đồng minh chủ chốt tại nghị viện của ông Poroshenko là Thủ tướng Yatsenyuk đang bị lung lay. Dù có muốn, tổng thống cũng sẽ không thể đạt được sự ủng hộ cần thiết trong Quốc hội Ukraine (Rada) về một thỏa hiệp cho Donbass. Nền chính trị của Ukraine chắc chắn sẽ trở nên quá khích với sự suy yếu về chính trị đang diễn ra của chính phủ trung ương.
Hai triệu chứng của cuộc khủng hoảng Donbass sẽ kéo dài cho đến nửa sau của năm 2016. Triệu chứng đầu tiên là sự thất bại về sửa đổi hiến pháp do Tổng thống đề xuất. Những sửa đổi này không tuân thủ các Hiệp định Minsk; tuy nhiên, các nhà chức trách Ukraine đã đề cập đến chúng như là bằng chứng cam kết của họ với Minsk. Nếu không thông qua chúng trong phiên họp hiện tại, Rada sẽ không thể thảo luận về sửa đổi hiến pháp thêm một năm nữa.
Triệu chứng thứ hai là một cuộc bỏ phiếu cho dự luật về bầu cử tại Donbass, mà hai bên xung đột (Kiev và các phiến quân) cần phải thông qua. Xét theo tình hình hiện nay, thì vị thế của hai bên không tương thích, và thật khó hình dung dự luật sẽ được chấp thuận – chưa tính đến việc bỏ phiếu của Rada, vốn là nơi các yếu tố tương tự đã phát sinh và cản trở việc đưa ra cải cách hiến pháp của tổng thống.
Ít nhất các bước đi quan trọng tiến tới giải pháp đó, sẽ không có được trong nửa đầu của năm 2016. Điều này ngụ ý vấn đề then chốt sẽ là liệu Ukraine có sẵn sàng tiếp tục các hành động thù địch hay không.
Người ta hầu như không mong đợi một cuộc chiến tranh toàn diện mới tại Donbass. Kết quả của các cuộc đụng độ vũ trang trước đây giữa Kiev và các nước Cộng hòa Nhân dân không để lại nhiều hy vọng cho Kiev. Bên cạnh đó, Nga đặc biệt quan tâm không để mất Donetsk và Luhansk. Các đối tác Tây Âu trong "Bộ tứ Normandy" cũng chống lại chiến tranh, điều mà Paris và Berlin xem như mối đe dọa với an ninh của châu lục này. Tuy nhiên, do các cuộc đấu tranh chính trị nội bộ mới ở Ukraine, nên có khả năng Kiev sẽ quyết định phát động một cuộc tấn công mới ở Donbass.
Trong trường hợp chiến tranh tiếp tục, các nước Cộng hòa nhân dân Donetsk và Luhansk (DNR và LNR) có một mục tiêu chính trị rõ ràng: giành quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ của vùng Donetsk và Luhansk. Đối với Kiev, nguy cơ quân sự chính là mất các thị trấn mới ở Donbass, nếu chiến dịch mới thất bại. Quyết định của Moskva hạn chế sự phản kích của lực lượng dân quân Donbass sẽ phụ thuộc vào hai điều kiện. Thứ nhất, Nga thấy được vị trí giá trị của các đối tác Ukraine mà Nga có xu hướng lắng nghe trong thời điểm quan trọng. Thứ hai, liệu Moskva có đạt được hiểu biết chung với Berlin và Paris trong việc công nhận trách nhiệm của Kiev đối với việc tiến hành các hoạt động thù địch.
Chúng ta cần nhấn mạnh là cả Donbass lẫn Moskva đều không muốn một cuộc chiến tranh mới. Nó sẽ gây ra rủi ro rất lớn và thiệt hại khủng khiếp không thể tránh khỏi. Nhờ chiến dịch tại Syria, Nga bắt đầu tìm một cách làm mới trong quan hệ với Tây Âu và rất biết giá trị của thành công này. Các nhà chức trách Kiev vẫn còn được lòng Tây Âu đến mức nó không thể công nhận trách nhiệm của họ đối với cuộc nội chiến. Nhận ra vị trí ngoại giao của mình đang xấu đi, Ukraine khó dám bắt đầu một cuộc chiến mới trong những điều kiện không chắc chắn như vậy.
Cùng lúc, Kiev sẽ nỗ lực tìm đồng minh không phải Mỹ mà ủng hộ một cuộc chiến như vậy chống Donbass. Sự tham gia của Thổ Nhĩ Kỳ vốn đang bị tranh cãi nhiều ở Ukraine vẫn còn gây nghi ngờ. Đương nhiên, Ankara sẽ làm mọi thứ để dọa Moskva bằng cách hỗ trợ các tổ chức cấp tiến Tatar ở Crimea hoặc phe diều hâu Kiev. Tuy nhiên, thật khó tin rằng sự dính líu quân sự của Thổ Nhĩ Kỳ ở Ukraine được Washington ủng hộ; đây là điều mà liên minh này có thể không cần.
Rất khó giải quyết nhanh cuộc khủng hoảng Ukraine, nhưng chiến tranh thì được. Có vẻ như tình hình của năm 2015 sẽ lặp lại vào năm 2016: Kiev sẽ tiếp tục gây sức ép lên Donbass bằng cách bắn phá và bao vây, tránh các cuộc đàm phán có ý nghĩa về một giải pháp. Những người kiên nhẫn nhất sẽ thắng thế.
Xung đột tiềm tàng ở châu Á
Cạnh tranh Mỹ-Trung sẽ quyết định các mối đe dọa an ninh trong khu vực Đông Á. Căng thẳng đang gia tăng trong quan hệ giữa Bắc Kinh và các đồng minh quân sự quan trọng nhất của Washington trong khu vực là Nhật Bản và Úc. Những điểm an ninh dễ bị tổn thương nhất của Đông Á năm 2016 sẽ là vấn đề Đài Loan và bất đồng ngày càng tăng ở các vùng biển Hoa Đông và Biển Đông.
Chiến thắng của đảng Dân Tiến (DPP) trong cuộc bầu cử tổng thống tại Đài Loan đã để lại nhiều bất ổn. Nếu DPP công khai bác bỏ nguyên tắc một quốc gia hoặc tuyên bố nền độc lập của Đài Bắc, Bắc Kinh sẽ không có gì để làm ngoài sử dụng sức mạnh quân sự để trấn áp cái mà họ nhìn nhận là những kẻ ly khai. Lần đầu tiên trong bốn năm qua nguy cơ của kịch bản này đã khiến Washington tiếp tục chuyển giao vũ khí cho Đài Loan: năm 2016 kế hoạch cung cấp vũ khí lên đến 1,8 tỷ USD. Bắc Kinh coi bước này là tín hiệu trực tiếp về việc ủng hộ các nhà chức trách Đài Loan, và đảm bảo sẽ có phản ứng gay gắt. Người ta chắc rằng Trung Quốc sẽ không chỉ đưa ra các biện pháp trừng phạt chống lại các nhà cung cấp vũ khí lớn cho Đài Loan, mà còn gây áp lực cho các công ty Mỹ đang hoạt động tại thị trường Trung Quốc.
Nguồn gốc thường xuyên của sự bất đồng ở Đông Á là sự can dự tích cực của Washington vào các xung đột lãnh thổ ở các vùng biển Hoa Đông và Biển Đông. Tháng 10/2015, tàu khu trục USS Lassen bắt đầu tuần tra trong khu vực 12 hải lý của các đảo nhân tạo do Trung Quốc xây dựng ở Biển Đông, và trong tháng 12, các máy bay ném bom của Mỹ đã bay gần quần đảo Trường Sa. Phản ứng của Bắc Kinh với những hành động như vậy có thể rất cứng rắn. Để thể hiện sự nghiêm túc trong các ý định của mình, ngày 17/12/2015, một tàu ngầm Trung Quốc đã tiến hành cuộc tấn công mô phỏng vào tàu sân bay USS Ronald Reagan. Nếu hai bên tiếp tục kiểu hành vi quân sự nguy hiểm này, thì rủi ro của một vụ va chạm là cao. Hai bên đã có một vụ tương tự năm 2001, khi một máy bay phản lực của Trung Quốc đâm vào một máy bay trinh sát EP-3 của Mỹ. Ngoài ra, Trung Quốc và Mỹ có khả năng gia tăng các hoạt động thù địch trả đũa nhau trên không gian mạng trong năm 2016.
Các hoạt động của Úcvà Nhật Bản ở các vùng biển Hoa Đông và Biển Đông gây thêm một thất vọng nữa cho Bắc Kinh. Tokyo dự định đặt các khẩu đội pháo và tàu dọc theo hai trăm hòn đảo trên một dải đất rộng 1.400 km để cản trở tàu quân sự Trung Quốc di chuyển về phía Tây Thái Bình Dương. Tháng 8/2015, Nhật Bản đã thông qua ngân sách quân sự lớn nhất trong lịch sử sau Chiến tranh thế giới thứ hai (27 tỷ USD).
Và trong Hội nghị thượng đỉnh APEC, Thủ tướng Shinzo Abe nói rằng nước ông sẵn sàng xem xét tham gia tuần tra các vùng lãnh thổ tranh chấp ở Biển Đông. Đồng thời, các chuyến bay của Úc qua các đảo tranh chấp làm Trung Quốc khó chịu nhiều hơn lo ngại. Tuy nhiên, khả năng một vụ va chạm vũ trang với tàu quân sự Nhật Bản hoặc Úclà cao. Bắc Kinh tin rằng Washington chưa muốn bị cuốn vào một cuộc xung đột toàn diện với Trung Quốc, dù là vì lợi ích của các đồng minh chủ chốt, trong khi hình ảnh của Nhật Bản là kẻ thù lịch sử của Trung Quốc vẫn có thể kích thích sự leo thang.
Những rủi ro chính của Nga năm 2016
Các tác giả có quan điểm tiêu cực về tương lai của lệnh trừng phạt chống Nga trong năm 2016. Lệnh này sẽ không được dỡ bỏ vì phải đáp ứng một số điều kiện sau: Hiệp định Minsk-2 phải được thực hiện đầy đủ, các hành động khiêu khích quân sự ở Donbass phải dừng lại, những người phản đối lệnh trừng phạt của EU phải thắng những người ủng hộ và chính EU phải sẵn sàng từ chối hợp tác với Mỹ trong vấn đề trừng phạt, hoặc cách khác là Tổng thống Obama phải ủng hộ EU và xóa bỏ lệnh trừng phạt nửa năm trước khi kết thúc nhiệm kỳ tổng thống. Tất cả điều này không thể đạt được trong năm 2016. Do đó, lệnh trừng phạt sẽ vẫn còn, và Nga cần phải làm quen với trạng thái bất lợi trong các vấn đề đối ngoại.
Mặc dù Tây Âu mệt mỏi với Ukraine và xung đột Donbass đóng băng, Mỹ sẽ không giảm hỗ trợ chế độ Kiev trong năm 2016, và trong trường hợp xấu nhất, Mỹ sẽ chuyển giao vũ khí cho Ukraine. Trên mặt trận Syria, những rủi ro ngắn hạn của Nga do choáng váng với thành công có thể dẫn đến leo thang không kiểm soát trong các mối quan hệ Nga-Thổ và khả năng va chạm trực diện với Ankara. Kết quả là, Nga bị mắc bẫy những người muốn nhìn thấy Nga bị kẹt ở Trung Đông và quan hệ với các nước láng giềng tiếp tục xấu đi. Mặc dù mong muốn biểu dương sức mạnh mỗi khi có dịp, Nga có thể không rơi vào những cái bẫy như vậy trong tương lai: Syria không phải là tuyến đầu chính của Nga.
Năm 2016, làn sóng phá hủy từ Trung Đông sẽ làm tăng nguy cơ leo thang xung đột ở vùng Caucasus, Nagorny-Karabakh và ở Trung Á, đặc biệt là bất ổn gia tăng ở Tajikistan. Tình trạng náo động trong dân chúng bên trong các đồng minh SNG của Nga có thể dấy lên câu hỏi về sự dính líu của Moskva.
Các nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ tiếp tục không tiến triển, giữ giá dầu ở mức thấp kỷ lục. Nhưng việc mở rộng khu vực hoạt động quân sự ở Trung Đông, sự trầm trọng thêm các căng thẳng Saudi Arabia-Iran hay bất ổn tại Saudi Arabia có thể làm thay đổi hoàn toàn những tính toán này.
Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và Nam Phi sẽ kiệt sức với các vấn đề quốc nội. Và mặc dù đồng cảm với vị thế của Nga ở châu Á và khu vực Mỹ Latinh, các ngân hàng và các doanh nghiệp của những nước này sẽ không làm bất cứ điều gì gây rắc rối trong quan hệ của họ với Mỹ.
Lựa chọn giữa hai điều tồi tệ
Rõ ràng là trong năm 2016, Nga sẽ phải chọn giữa những thay thế xấu và rất xấu. Người ta dự kiến một thay đổi tích cực trong chưa đến 7 hay 8 năm tới khi thế hệ lãnh đạo mới lên nắm quyền tại Mỹ và châu Âu có thể một lần nữa xem Nga là một đồng minh chiến lược và đối tác kinh doanh.
Trước hết, Nga cần thận trọng bảo vệ quyền lực của mình và tránh bị lôi kéo vào các cuộc chiến tranh quy mô toàn diện và đối đầu kéo dài. Cho đến giờ Nga đã thành công.
Thứ hai, Nga phải kiên nhẫn xây dựng mối quan hệ với Tây Âu mà các nước này đang dần nhận ra tầm quan trọng của việc duy trì đối thoại chính trị và quan hệ kinh tế với Nga. Các cuộc bầu cử sắp tới ở các nước châu Âu chủ chốt và Mỹ mang đến hy vọng rằng tình đoàn kết xuyên Đại Tây Dương sẽ không còn là một chân lý đương nhiên và châu Âu cuối cùng sẽ lấy lại được tiếng nói của chính mình.
Thứ ba, Nga không thể để có những bất đồng và hiểu lầm với các nước láng giềng gần nhất và các đồng minh, cụ thể là Trung Quốc, Belarus, Kazakhstan và Armenia. Đây không phải là một vấn đề về quan hệ giữa các quốc gia, mà là sự cần thiết phải làm sâu sắc thêm hiểu biết chung giữa các giới tinh hoa, dù là doanh nghiệp, quân đội hay thanh niên.
Cuối cùng, các ưu tiên của Nga trong năm 2016 bao gồm mục tiêu chiến lược là ổn định hóa lục địa Á-Âu lớn hơn như một sự bảo đảm cho sự tồn tại và thịnh vượng của Nga. Điều cực kỳ quan trọng với Nga là hợp tác với Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, các đối tác trong Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO) và các nước ASEAN tạo ra một hệ thống an ninh tập thể, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông và năng lượng Liên Á, và đảm bảo sự hình thành một thị trường Âu-Á trị giá 4 tỷ USD đang phát triển nhanh chóng.
* Bài đăng trên National Interest của các tác giả Andrey Bezrukov là cố vấn chiến lược tại Rosneft và Phó Giáo sư tại Đại học MGIMO (Nga); Mikhail Mamonov là nhà phân tích cao cấp thuộc Nhóm Phân tích Chính sách Đối ngoại và có vấn của Quỹ Đầu tư Nga – Trung; Sergey Markedonov là nhà phân tích cao cấp thuộc Nhóm Phân tích Chính sách Đối ngoại và Phó Giáo sư tại Đại học Quốc gia Nga; Andrey Sushentsov là Phó Giáo sư tại Đại học MGIMO, giám đốc chương trình tại Valdai Club và giám đốc thuộc Nhóm Phân tích Chính sách Đối ngoại.