Nâng tầm 3 đột phá chiến lược cho kỷ nguyên mới

Nâng tầm 3 đột phá chiến lược cho kỷ nguyên mới

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

TS Nguyễn Hoàng Hiệp cho rằng 3 đột phá về thể chế, hạ tầng, nhân lực không lỗi thời mà cần nâng lên tầm cao mới, trở thành nền tảng giúp đất nước chuyển từ phát triển theo chiều rộng sang chiều sâu, dựa trên tri thức và đổi mới sáng tạo.

Góp ý vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội Đảng 14, TS. Nguyễn Hoàng Hiệp, Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu tin học và kinh tế ứng dụng (IIB), nhấn mạnh việc tiếp tục kế thừa có chọn lọc 3 đột phá chiến lược. Vấn đề cốt lõi không nằm ở việc bổ sung “đột phá thứ tư”, mà ở chỗ làm sâu hơn, thực chất hơn 3 trụ cột hiện hữu, nhất là thể chế, để kiến tạo động lực phát triển trong giai đoạn mới.

B3-1.jpg

-Đảng ta tiếp tục khẳng định 3 đột phá chiến lược (thể chế, hạ tầng, nhân lực) là trụ cột phát triển đất nước. Tuy nhiên, theo ông, vì sao sau hơn một thập kỷ thực hiện, 3 đột phá này, trong các dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng XIV vẫn được nhấn mạnh, thay vì bổ sung một đột phá mới?

-Ba đột phá chiến lược (thể chế, hạ tầng và nhân lực) là nền móng bất biến của mọi chiến lược phát triển quốc gia. Sau hơn một thập kỷ triển khai, việc tiếp tục nhấn mạnh chúng trong các dự thảo văn kiện Đại hội 14 không phải vì chúng ta thiếu ý tưởng mới, mà bởi 3 trụ cột ấy chưa bao giờ là cũ. Mỗi giai đoạn phát triển đòi hỏi một cách tiếp cận mới, nâng tầm nội hàm của từng đột phá lên một chuẩn mực cao hơn.

Thể chế ngày nay không chỉ là hoàn thiện hệ thống pháp luật, mà là kiến tạo môi trường vận hành minh bạch, bảo vệ người dám nghĩ dám làm, khuyến khích đổi mới sáng tạo. Hạ tầng không còn dừng ở “cao tốc vật lý”, mà phải là “cao tốc dữ liệu”, tức hạ tầng số, hạ tầng năng lượng xanh và thông minh. Còn nhân lực không chỉ là đào tạo đại trà, mà phải xây dựng được tầng nhân lực tinh hoa, những người làm chủ công nghệ lõi, có năng lực sáng tạo tri thức mới và dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia.

Nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Singapore hay Phần Lan đều đi theo mô hình này. Họ không thay đổi “3 đột phá”, mà liên tục nâng cấp nội hàm và chất lượng thực thi. Nhờ đó, họ duy trì được nền tảng phát triển ổn định, đồng thời mở ra những ngành công nghiệp mũi nhọn mới.

Ở Việt Nam, chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực công nghệ cao, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của kỷ nguyên 4.0 và chuẩn bị cho 5.0. Năng suất lao động, kỹ năng số, cùng năng lực đổi mới sáng tạo còn là điểm nghẽn. Vì vậy, thay vì tìm kiếm “đột phá thứ tư”, điều chúng ta cần là làm sâu, làm thật và làm hiệu quả hơn 3 đột phá đã có.

Chính sự kiên định đó sẽ giúp Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu, dựa trên tri thức, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Ba đột phá không chỉ là kim chỉ nam cho hiện tại, mà còn là trụ cột để Việt Nam tạo nên những đột phá mới trong tương lai.

Yellow Simple Personal Introduction Instagram Post.jpg

-Vậy giai đoạn 2026–2030, nội hàm của đột phá thể chế cần được hiểu như thế nào cho phù hợp với thực tiễn mới của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN?

-Nếu giai đoạn trước, trọng tâm của chúng ta là xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì giai đoạn 2026 - 2030 cần chuyển mạnh sang bảo đảm tính thực thi, hiệu lực và hiệu quả của thể chế. Một thể chế tốt không chỉ dừng ở văn bản, mà phải đi vào đời sống, tạo nên môi trường chính sách minh bạch, nhất quán và ổn định để củng cố niềm tin của doanh nghiệp, nhà đầu tư, và hơn hết là của người dân.

Cốt lõi của đổi mới thể chế là chuyển vai trò của Nhà nước từ “làm thay” sang kiến tạo, giám sát và hỗ trợ, đồng thời nâng cao trách nhiệm giải trình của bộ máy công quyền. Đây chính là điều kiện tiên quyết để kinh tế tư nhân thật sự trở thành động lực quan trọng như Nghị quyết Đại hội 13 đã khẳng định.

Trong giai đoạn mới, thể chế cần được mở rộng về chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và kinh tế xanh, những trụ cột định hình tương lai. Chính sách phải có tầm nhìn xa, mở đường cho kinh tế số, xã hội số, giao dịch điện tử xuyên biên giới, quản lý tài sản số và bảo vệ dữ liệu cá nhân. Cùng với đó, cần khẩn trương hoàn thiện thị trường tín chỉ carbon, cơ chế định giá carbon, thu hút đầu tư năng lượng tái tạo, và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn để bảo đảm phát triển bền vững.

Đổi mới thể chế khoa học - công nghệ cần gắn với mô hình sandbox, khuyến khích đầu tư R&D, bảo hộ tài sản trí tuệ, qua đó hình thành nội hàm thể chế mới phù hợp với thực tiễn phát triển.

Một yêu cầu cấp bách khác là đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với kiểm soát quyền lực. Thực tế cho thấy, nhiều “nút thắt” thể chế xuất phát từ sự chồng chéo giữa trung ương và địa phương, giữa các bộ ngành. Vì thế, cần trao quyền đi đôi với trách nhiệm, tăng cường minh bạch, giám sát và phòng ngừa lạm quyền.

Cuối cùng, đột phá thể chế phải song hành với việc xây dựng văn hóa pháp quyền, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ, bởi dù thể chế có tốt đến đâu, nếu thiếu đội ngũ liêm chính và tận tâm thì bộ máy vẫn khó vận hành hiệu quả. Đây chính là trụ cột để nâng cao năng lực quản trị quốc gia và kiến tạo niềm tin phát triển bền vững.

B3-2.jpg

-Trong dự thảo Báo cáo Chính trị của BCH TƯ trình Đại hội 14 nhấn mạnh “thể chế kiểm soát quyền lực và bảo vệ người dám làm” là đột phá trong đột phá. Theo ông, vì sao?

-Giai đoạn trước, Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ trong hoàn thiện thể chế kinh tế, nhưng bước vào giai đoạn sâu hơn, “nút thắt của nút thắt” không còn là thiếu luật, mà là thiếu thực thi hiệu quả. Khi quyền lực không được kiểm soát, thể chế bị “bẻ cong”; còn khi cán bộ sợ sai, sợ trách nhiệm, thể chế bị đóng băng.

Vì vậy, kiểm soát quyền lực và bảo vệ người dám làm phải trở thành “đột phá trong đột phá” của giai đoạn tới. Kiểm soát quyền lực không chỉ là giám sát hành chính, mà là xây dựng văn hóa quyền lực, nơi quyền lực được ràng buộc bởi pháp luật và đạo đức công vụ. Cần cơ chế “trao quyền rõ, trách nhiệm rõ, kiểm tra rõ” để vừa khuyến khích đổi mới, vừa ngăn ngừa sai phạm.

Song song, phải luật hóa cơ chế bảo vệ người dám làm vì dân, vì nước. Nếu người tốt không được bảo vệ, không ai dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Thể chế cần phân định rạch ròi giữa sai phạm do động cơ cá nhân và rủi ro khách quan khi đổi mới, đồng thời có quy trình bảo vệ, khen thưởng, thậm chí phục hồi danh dự cho người dám chịu trách nhiệm.

Khi quyền lực được kiểm soát và người đổi mới được bảo vệ, năng lượng sáng tạo trong khu vực công và tư nhân sẽ được khơi dậy, chính sách mới có thể đi vào cuộc sống. Thể chế kiểm soát quyền lực cũng phải được thiết kế bằng luật, gắn với minh bạch hóa quá trình ra quyết định, đặc biệt trong đầu tư công, đất đai, tài chính - ngân hàng; đồng thời mở rộng quyền giám sát của nhân dân, báo chí và xã hội.

Nếu thể chế kinh tế là phần “cứng” của khung phát triển, thì thể chế kiểm soát quyền lực và bảo vệ người dám làm là phần “mềm” của năng lực lãnh đạo quốc gia. Đây chính là điều kiện tiên quyết để 3 đột phá chiến lược vận hành thông suốt, nuôi dưỡng tinh thần đổi mới, nâng cao trách nhiệm công vụ, và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN liêm chính, minh bạch, vì dân.

TS Quote 1.jpg

-Thể chế cho các mô hình kinh tế mới (như kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế đêm, giao dịch xuyên biên giới) vẫn đang chậm hơn thực tiễn. Đâu là rào cản lớn nhất và chúng ta nên bắt đầu từ khâu nào để tạo đột phá thực chất?

-Rào cản lớn nhất đối với các mô hình kinh tế mới hiện nay không nằm ở việc “chưa có luật”, mà ở tư duy quản lý cũ, vốn được xây dựng cho nền kinh tế tiền số. Nhiều cơ quan vẫn quản lý theo lối tiền kiểm, xin - cho, cấp phép, trong khi kinh tế số, kinh tế chia sẻ hay fintech lại đòi hỏi hậu kiểm, giám sát linh hoạt và chấp nhận rủi ro đổi mới. Cơ chế hiện hành thường ưu tiên sự an toàn cho bộ máy hơn là khuyến khích sáng tạo, dẫn đến tâm lý “sợ sai, sợ trách nhiệm, chờ hướng dẫn”. Đây chính là rào cản thể chế mang tính hệ thống, khiến chính sách chưa kịp triển khai đã phải sửa, luôn đi sau thực tiễn.

Rào cản thứ hai là khung pháp lý phân tán và thiếu cơ chế thử nghiệm. Các mô hình kinh tế mới thường vượt qua ranh giới của nhiều luật chuyên ngành (thương mại, ngân hàng, công nghệ, thuế, lao động, an ninh mạng...), dẫn đến xung đột và khoảng trống pháp lý. Việt Nam hiện vẫn thiếu một sandbox pháp lý linh hoạt, nơi doanh nghiệp được thử nghiệm sáng tạo trong phạm vi được giám sát. Không có “vùng an toàn thử nghiệm”, đổi mới dễ rơi vào hai thái cực: hoặc bị cấm, hoặc không có chính sách rõ ràng để vận hành.

Rào cản thứ ba là thiếu dữ liệu và hạ tầng số cho quản lý nhà nước. Kinh tế số và kinh tế chia sẻ dựa trên dữ liệu, nền tảng và kết nối xuyên biên giới, nhưng dữ liệu trong nước lại phân tán, không liên thông giữa các bộ ngành. Khi thiếu dữ liệu minh bạch, việc hoạch định chiến lược, giám sát và đánh giá chính sách sẽ chậm, thiếu chính xác.

Để tạo đột phá, Việt Nam cần đổi mới tư duy thể chế: từ “quản lý cái đang có” sang “tạo điều kiện cho cái mới hình thành”. Nhà nước cần đóng vai người kiến tạo, coi rủi ro đổi mới là tất yếu, xây dựng cơ chế chấp nhận, đánh giá, quản lý rủi ro thay vì né tránh. Cùng với đó là đẩy nhanh chuyển đổi số trong quản trị công, hình thành chính phủ số, pháp quyền số, nơi mọi thủ tục, thanh tra, cấp phép đều được số hóa và minh bạch.

Khi tư duy linh hoạt, sandbox pháp lý và quản trị số hiện đại cùng song hành, thể chế mới sẽ thực sự trở thành “đòn bẩy” thay vì “nút thắt” cho các mô hình kinh tế mới phát triển.

B3-4.jpg

-Về đột phá hạ tầng, giai đoạn trước tập trung vào cao tốc, cảng biển, sân bay. Nhưng trong bối cảnh kinh tế số đề cập đến “cao tốc của thời đại mới” là hạ tầng số. Cụ thể, Việt Nam cần ưu tiên gì trong 5 năm tới để hạ tầng số đi trước một bước, thưa TS?

-Nếu giai đoạn trước chúng ta làm “cao tốc vật lý”, thì nay phải xây “cao tốc dữ liệu”. Hạ tầng số là mạch máu của nền kinh tế hiện đại, nơi dữ liệu trở thành tài nguyên chiến lược và an ninh mạng là tuyến phòng thủ quốc gia.

Ba ưu tiên lớn cần được xác lập rõ. Thứ nhất, phát triển hạ tầng dữ liệu quốc gia gồm trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây và dữ liệu mở. Dữ liệu phải được xem là tài sản công, khai thác có điều kiện nhưng bảo đảm chủ quyền và an ninh. Thứ hai, phổ cập băng thông rộng, triển khai 5G, tiến tới 6G, để mọi người dân, vùng miền đều có quyền tiếp cận Internet như tiếp cận điện, nước. Thứ ba, củng cố an ninh mạng và chủ quyền số, coi đây là thành tố cốt lõi của hạ tầng số.

Giai đoạn 2026 - 2030, chiến lược hạ tầng số cần tập trung vào 5 trọng điểm:

Bảo đảm hạ tầng lõi và kết nối quốc tế: mở rộng tuyến cáp biển, điểm trao đổi Internet (IXP) và PoP quốc tế nhằm tăng băng thông, giảm chi phí, hỗ trợ dịch vụ AI, cloud và thương mại xuyên biên giới.

Phát triển trung tâm dữ liệu và điện toán đám mây xanh (hyperscale + edge) gần người dùng để phục vụ ứng dụng thời gian thực; khuyến khích PPP, ưu đãi đất và thuế có điều kiện về năng lượng tái tạo.

Triển khai đồng bộ nhận diện số quốc gia (e-ID/VNeID): nền tảng cho dịch vụ công, tài chính, thương mại điện tử xuyên biên giới.

Thực thi Luật Dữ liệu và khung quản trị dữ liệu quốc gia: đảm bảo tiêu chuẩn, phân quyền, chia sẻ, tránh lãng phí tài nguyên dữ liệu.

Xây dựng chiến lược an ninh mạng và năng lượng xanh: tăng khả năng phục hồi khi bị tấn công, bảo vệ dòng chảy dữ liệu an toàn, ổn định.

Khi “xa lộ số quốc gia” được hoàn thiện, dữ liệu sẽ lưu thông minh bạch, an toàn, trở thành đòn bẩy cho năng suất, sáng tạo và sức cạnh tranh của Việt Nam trong kỷ nguyên số.

5 CHIẾN LƯỢC.jpg

-Cùng với hạ tầng số, hạ tầng năng lượng là yếu tố sống còn cho công nghiệp công nghệ cao. Theo ông, đâu là giải pháp để bảo đảm an ninh năng lượng mà vẫn đáp ứng cam kết xanh, chuyển đổi sang năng lượng sạch?

-Nhu cầu năng lượng của Việt Nam đang tăng nhanh hơn năng lực cung ứng. Dự báo đến năm 2030, nhu cầu điện tăng 8 - 9% mỗi năm, đặc biệt từ các ngành sản xuất chip, trung tâm dữ liệu và logistics điện hóa. Trong khi đó, các nguồn cung truyền thống như than, khí đang chịu sức ép giảm phát thải và chi phí nhập khẩu cao, theo các cam kết quốc tế tại COP26 hướng tới phát triển bền vững và mục tiêu net zero năm 2050.

Hệ thống truyền tải, phân phối điện còn thiếu đồng bộ, gây tắc nghẽn ở vùng có tiềm năng năng lượng tái tạo. Cơ chế giá, chính sách đầu tư chưa đủ hấp dẫn khiến dòng vốn xanh còn hạn chế. Việt Nam vì thế không chỉ thiếu điện, mà còn thiếu cả một thể chế năng lượng linh hoạt để huy động nguồn lực mới. Cần một tư duy an ninh năng lượng bền vững, đa dạng nguồn cung, tránh phụ thuộc, ứng dụng công nghệ lưu trữ và mở rộng cạnh tranh trong thị trường điện.

Các giải pháp trọng tâm giai đoạn 2026–2030: Hoàn thiện thể chế và thị trường điện cạnh tranh: Xây dựng khung giá linh hoạt theo giờ và vùng; cho phép hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA) giữa doanh nghiệp và nhà máy năng lượng tái tạo. Phát triển năng lượng tái tạo gắn lưu trữ điện: Đầu tư điện gió ngoài khơi, mặt trời áp mái, sinh khối; khuyến khích dự án lưu trữ (battery storage, thủy điện tích năng); đưa tiêu chí “điện xanh – sạch – ổn định” vào chiến lược thu hút FDI công nghệ cao. Đầu tư lưới điện thông minh: Ứng dụng AI, IoT, dữ liệu lớn để tối ưu vận hành, dự báo nhu cầu, quản lý rủi ro; triển khai lưới siêu cao áp Bắc–Nam để giải tỏa công suất tái tạo.

Thúc đẩy tiêu dùng năng lượng xanh: Áp dụng ISO 50001, ESG, RE100; phát triển thị trường tín chỉ carbon. Tận dụng cơ chế JETP: Thu hút vốn xanh, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực; xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro – doanh thu để hút đầu tư tư nhân. Cuối cùng, cần tích hợp quy hoạch năng lượng với hạ tầng số và công nghiệp, vì năng lượng xanh chính là “xương sống” của hạ tầng số và bệ phóng cho kinh tế công nghệ cao.

B3-44.jpg

-Đối với đột phá về nhân lực, nhiều nước đang chuyển mạnh sang đào tạo tinh hoa trong các lĩnh vực mũi nhọn như AI, bán dẫn, công nghệ sinh học. Theo ông, Việt Nam cần làm gì để hình thành “tầng nhân lực chiến lược”, vừa tinh hoa, vừa gắn với nhu cầu phát triển công nghiệp công nghệ cao?

-Để hình thành “tầng nhân lực chiến lược” vừa tinh hoa, vừa gắn với nhu cầu phát triển công nghiệp công nghệ cao, Việt Nam cần bắt đầu từ việc xác định rõ các lĩnh vực mũi nhọn mang tính chiến lược và có lợi thế cạnh tranh quốc gia. Theo đó, nên ưu tiên các ngành AI, bán dẫn, công nghệ sinh học, y sinh, năng lượng tái tạo, lưu trữ và hydro xanh, những lĩnh vực Việt Nam có tiềm năng phát triển vượt trội nhờ vị trí địa lý, nguồn lực tự nhiên và nhu cầu chuyển đổi năng lượng.

Tiếp theo, cần thiết lập cơ chế “tam giác nhân lực”: Nhà nước - Doanh nghiệp - Đại học. Nhà nước đóng vai trò hoạch định chiến lược và đầu tư dài hạn thông qua học bổng toàn phần, quỹ nghiên cứu và khởi nghiệp công nghệ cao. Doanh nghiệp tham gia đồng thiết kế chương trình đào tạo, đặt hàng nhân lực chuyên sâu và hỗ trợ thực tập, tuyển dụng. Đại học và viện nghiên cứu trở thành trung tâm ươm mầm nhân tài, kết nối mạnh mẽ với mạng lưới học thuật và công nghệ quốc tế, tạo cầu nối giữa đào tạo và sản xuất.

Đồng thời, cần xây dựng mạng lưới Đại học tinh hoa quốc gia, lựa chọn các trường trọng điểm theo từng lĩnh vực để đầu tư ngân sách ổn định, trao quyền tự chủ cao và thu hút chuyên gia toàn cầu. Song song, thành lập Quỹ Tài năng quốc gia nhằm hỗ trợ tài chính, nhà ở, thuế và điều kiện nghiên cứu cho chuyên gia Việt kiều, trí thức quốc tế muốn cống hiến cho quê hương.

Cuối cùng, cần coi nhân lực tinh hoa là tài sản chiến lược quốc gia. Mỗi chuyên gia cần được “định danh” trong cơ sở dữ liệu nhân tài quốc gia, được quản lý và phát triển theo ngành, lĩnh vực, dự án trọng điểm. Chỉ khi có cơ chế bảo vệ, trọng dụng và giữ chân người tài một cách minh bạch, bền vững, Việt Nam mới có thể hình thành một tầng nhân lực chiến lược đủ sức dẫn dắt công nghiệp công nghệ cao trong kỷ nguyên mới.

Xin cám ơn ông!