Nhưng tình huống có thể sẽ rất khác. Nghiên cứu về S-300 và S-400, bình luận viên quân sự Charlie Gao trong một bài viết trình bày sự phát triển của S-300 và việc hình thành tổ hợp tên lửa phòng không S-400:
"Tổ hợp tên lửa phòng không S-300 được phát triển vào những năm 1960, dựa trên khái niệm hệ thống tên lửa đất đối không (SAM). S-75 Dvina (SA-2) là vũ khí mà hệ thống dự kiến thay thế. S-75 từng bắn hạ chiếc máy bay trinh sát U-2, rất nổi tiếng tại Cuba và Việt Nam.
Hệ thống vượt qua những thử nghiệm cấp quốc gia vào những năm 1970, được đưa vào biên chế năm 1978. Điều gì đã khiến S-400 trở thành một mặt hàng nóng bỏng trên thị trường vũ khí thế giới ngày nay? Hệ thống này phát triển từ S-300 trước đó như thế nào?
Một trong những đặc trưng kỹ thuật tốt nhất của S-300 so với tất cả các hệ thống trước đó (S-75 Dvina, S-125 Pechora, Kvadrat, S-200...) là hệ thống trinh sát, phát hiện và dẫn đạn đa kênh — sử dụng các chùm bức xạ radar đa tần số dẫn tên lửa đến mục tiêu cùng một lúc. Hệ thống phòng không S-25 trước đó cũng có đa kênh. Nhưng S-25 cực kỳ nặng và chỉ được triển khai trên các giá phóng cố định. Hệ thống SAM-D của Mỹ (được phát triển thành MIM-104 Patriot) là hệ thống SAM đầu tiên của Mỹ sử dụng công nghệ đa kênh, được đưa vào khai thác sử dụng năm 1981, ba năm sau Liên Xô.
Lực lượng phòng không Liên Xô được biên chế hệ thống tên lửa phòng không S-300, S-300PT. Tổ hợp tên lửa phòng không S-300PT một tổ hợp tên lửa TEL cơ động (vận tải, triển khai, phóng - Transporter, Erector, Launcher) và hệ thống radar, được lắp đặt trên các xe tải hạng nặng có thể phóng đạn. Tổ hợp được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực. S-300 là hệ thống phòng không (PVO) có ưu thế hơn hẳn những tổ hợp phòng không cố định nhưng chưa phải là một giải pháp phòng không lý tưởng.
Các nhà khoa học quân sự Liên Xô nghiên cứu rất kỹ kinh nghiệm sử dụng SAM ở Việt Nam, so sánh với những tổ hợp tên lửa mới hơn ở Trung Đông và nhận thấy rằng, công tác triển khai hỏa lực nhanh sẽ tối đa hóa hiệu quả của SAM. S-300PT mất hơn một giờ để chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu do phải kéo các bệ phóng và radar. Đây chính là nhược điểm mà các hệ thống phòng không phải được khắc phục. Tổ hợp S-300PT khởi điểm được trang bị tên lửa 5V55 với tầm bắn hiệu quả khoảng 75km.
Kết quả của những nghiên cứu này là toàn bộ tổ hợp S-300 được lắp đặt trên các xe tải siêu trường, siêu trọng MAZ-7910 (mặc dù các biến thể sau này được lắp đặt trên các xe tải mới hơn cũng như các rơ-moóc kéo đa năng). Hệ thống vận tải, triển khai, phóng đạn TEL, hệ thống radar và hệ thống chỉ huy, điều khiển hỏa lực đều được lắp đặt trên các xe vận tải đại xa này. Các thiết bị hỗ trợ, chẳng hạn như thiết bị triệt tiêu sự khác biệt giữa radar và tầm cao tên lửa phóng được lắp các xe vận tải địa hình có trọng tải nhẹ hơn. Toàn bộ hệ thống mới, được gọi là S-300PS, được biên chế cho quân đội năm 1982. Phiên bản được sửa đổi dành cho xuất khẩu là S-300PMU. S-300PS sử dụng tên lửa 5V55R lớn hơn có tầm hoạt động đến 90km.
Quân đội Nga phát triển tổ hợp tên lửa S-300P cả hai hướng, S-300F dành riêng cho hải quân và S-300V cho quân đội. Ngoài các máy bay chiến đấu, hệ thống S-300V được cải tiến đặc biệt để đánh chặn các tên lửa đạn đạo chiến thuật như Lance và Pershing.
Tính năng kỹ chiến thuật đặc trưng của hệ thống S-300V là có hai biến thể xe phóng đạn TEL, một TEL mang bốn container tên lửa 9M83 tầm 75km và một xe phóng TEL có hai tên lửa 9M82 có tầm bắn hơn 100km. Xe phóng TEL, radar, đài chỉ huy - điều hành tác chiến S-300V được lắp đặt trên thân xe tải siêu trọng (giống như phần pháo 2S7) cho khả năng cơ động trên địa hình tốt hơn so với S-300PS. S-300V được đưa vào biên chế trong quân đội năm 1985.
Các kỹ sư phòng không Nga tiếp tục phát triển thêm cả hai biến thể V và P của tổ hợp S-300. Phiên bản tên lửa phòng không S-300PM phát sinh từ ý tưởng tích hợp chức năng chặn của các tên lửa đạn đạo S-300V vào tên lửa phòng không thông thường S-300P. Phiên bản xuất khẩu của tổ hợp S-300PM được gọi là S-300PMU. Từ những thành tựu đạt được của S-300, các nhà khoa học quân sự Nga đã đưa ra khái niệm hệ thống tên lửa S-400.
Những tổ hợp tên lửa phòng không S-400 ban đầu được gọi là S-300PMU-3, được xác định như là giai đoạn hiện đại hóa thứ 3 của tổ hợp S-300, có tính năng kỹ chiến thuật cao hơn, có khả năng tiêu diệt tất cả các phương tiện bay thông thường và tên lửa đạn đạo. Hệ thống được giới thiệu lần đầu tiên tại triển lãm MAKS 2007, có thể nhận thấy hầu hết các xe khí tài có bề ngoài tương tự như hệ thống S-300PMU-2.
Nhưng những tiến bộ trong công nghệ phát triển tên lửa và radar đã khiến cho hệ thống tên lửa S-400 nâng cấp vượt trội hơn tới hơn 2 lần so với các hệ thống tên lửa S-400 khởi đầu. Radar thế hệ mới, được trang bị cho tổ hợp S-400 có khả năng phát hiện hầu hết các phương tiện bay trên không.
Hơn thế nữa, tổ hợp tên lửa phòng không S-400 có khả năng phóng đến 4 loại tên lửa có trọng lượng và những tính năng kỹ chiến thuật khác nhau. Đây là một điểm đặc biệt mà không có loại tên lửa phòng không nào từng có, từ các mục tiêu tầm gần đến tầm xa, từ tên lửa đạn đạo đến máy bay chiến đấu các loại.
Đặc trưng này cho phép hệ thống S-400 tự tạo thành hệ thống phòng không đa lớp. S-400 trở thành một hệ thống phòng không linh hoạt hơn, có khả năng bảo vệ một vùng rộng lớn chống lại các phương tiện không kích. S-400 sử dụng hầu hết các loại đạn dạng container của những biến thể S-300 trước đó. Ngoài ra, đài chỉ huy điều hành tác chiến có khả năng tích hợp và điều khiển tất cả các tổ hợp tên lửa phòng không trước đó, bao gồm cả S-125 Pechora.
Truyền thông đại chúng cho biết, các tên lửa S-400 có khả năng tác chiến hiệu quả trên phạm vi đến 240km đối với mục tiêu trên không, trong khi đó S-300PMU-1 chỉ có tầm bắn hiệu quả đến 150km và S-300PMU-2 có tầm bắn hiệu quả đến 200km. Những tên lửa tầm xa 40N6 của S-400 có thể bắn tới 400km.
Như vậy, thế nào là hệ thống S-400? Theo bản chất, đây vẫn là một hệ thống phòng không di động đa nhiệm, phát triển dành cho các lực lượng phòng không. Nhưng S-400 là một bước phát triển lớn trong lĩnh vực phòng không (nếu so với các hệ thống S-300PT/PS thế hệ đầu tiên) và giải quyết được nhiều các mục tiêu hơn so với các biến thể trước đó của S-300.
Có thể nói, S-400 là một hệ thống hoàn toàn khác hẳn. Nó là trái tim, là bộ não và là cốt lõi của một hệ thống phòng không với nhiều chủng loại pháo, tên lửa phòng không khác nhau trên một vùng rộng lớn có bán kính kiểm soát hàng trăm kilômet.
Những biến thể khác nhau của tổ hợp S-300 tích hợp thành hệ thống có khả năng tác chiến linh hoạt hơn, nằm trong một phiên bản khác là S-300PMU. Quân đội Nga tiếp tục phát triển S-300V thành S-300V4 và S-300VM (phiên bản Antey 2500 đa tên lửa xuất khẩu). Các kỹ sư Nga cũng tích hợp các tên lửa mới và công nghệ radar hiện đại nhằm tăng phạm vi phòng thủ hiệu quả, đến 200km đối với S-300PMU. Trên mỗi xe phóng TEL mới được trang bị thêm radar dẫn đạn tên lửa, giảm thiểu số lượng xe trong một đơn vị phòng không.
Thực tế, S-400 là một bước nhảy vọt rất lớn trong khái niệm phòng không đa lớp, trong khi các tổ hợp tên lửa từ khởi đầu của chiến tranh Việt Nam là S-75 đến S-300 có khái niệm chung là một tổ hợp tên lửa phòng không. Nhiều tổ hợp tên lửa phòng không với các tính năng khác nhau, kết hợp thành hệ thống phòng không dạng mạng. Nhưng hệ thống phòng không S-400 mang đầy đủ các tính năng của một hệ thống phòng không mạng Net. Hai hệ thống S-400 trở lên tích hợp thành hệ thống các mạng lưới phòng không, hình thành datalink (cơ sở dữ liệu chiến thuật thời gian thực), có thể điều khiển được tất cả các hệ phòng không liên hợp trong quốc gia hay khu vực.
Những thành tựu Nga đạt được là kết quả của quá trình phát triển chậm và lâu dài của tổ hợp tên lửa S-300 trước đó. Những tính năng tiên tiến như khả năng đánh chặn tên lửa đạn đạo, hoán đổi và thay thế các loại tên lửa mô-đun và dẫn bắn đa kênh được phát triển trong một thời gian dài với S-300. S-400 là sản phẩm được tích hợp các ưu thế của S-300, được cải tiến hơn nhờ ứng dụng triệt để công nghệ kỹ thuật số và các tính toán của trí tuệ nhân tạo. Chúng trở thành vũ khí thực sự nguy hiểm đối với không quân phương Tây.
Tác giả bài viết: Charlie Gao tốt nghiệp ngành Khoa học Chính trị và Khoa học máy tính tại trường Cao đẳng Grinnell, bình luận viên thường trực của The National Interests về quốc phòng và an ninh quốc gia.