Lúng túng trong gắn nhãn “sản phẩm của Việt Nam” hay “sản xuất tại Việt Nam”
Sáng 11/7, tại Hà Nội, Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) tổ chức Hội thảo trao đổi tiêu chí xác định xuất xứ Việt Nam đối với hàng hóa lưu thông trong nước.

Phát biểu tại Hội thảo, ông Nguyễn Anh Sơn – Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết trong những năm qua, cùng với xu thế hội nhập kinh tế thế giới, tình hình sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, hàng không rõ nguồn gốc, xuất xứ có diễn biến ngày càng phức tạp.
Điều này không chỉ gây thiệt hại cho lợi ích quốc gia mà còn gây thiệt hại cho nền kinh tế thế giới. Nhiều nước trên thế giới đã có những giải pháp hữu hiệu nhằm đấu tranh, phòng chống nạn sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, hàng không rõ nguồn gốc, xuất xứ để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Hiện nay, Việt Nam đã ban hành nhiều quy định về xuất xứ hàng hóa, trong đó, có việc xác định như thế nào một sản phẩm được coi là có xuất xứ Việt Nam. Các quy định này áp dụng cho hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu, giúp hàng hóa được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu theo cam kết tại các hiệp định thương mại tự do.
Tuy nhiên, với hàng hóa sản xuất trong nước, bao gồm hàng hóa sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu, sau đó lưu thông trong nước hoặc nguyên liệu, hàng hóa là đầu vào phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu hiện chưa có quy định như thế nào sẽ được gắn nhãn “sản phẩm của Việt Nam” hay “sản xuất tại Việt Nam”.
“Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết đặt ra, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công Thương chủ trì, nghiên cứu quy định các tiêu chí xác định xuất xứ Việt Nam đối với hàng hóa lưu thông trong nước.
Qua đó giúp doanh nghiệp có căn cứ xác định sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam, làm cơ sở xây dựng thương hiệu, uy tín “sản phẩm của Việt Nam”, giữ vững thị phần hàng hóa của “sản phẩm Việt Nam” trên chính sân nhà và tránh phát sinh tranh chấp giữa bên lưu thông hàng và bên sử dụng hàng hóa trong nước” – ông Nguyễn Anh Sơn cho hay.
Dự kiến 6 tiêu chí xác định xuất xứ Việt Nam
Tại Hội thảo, tham vấn về văn bản quy phạm pháp luật xây dựng Tiêu chí xác định xuất xứ Việt Nam đối với hàng hoá lưu thông trong nước, ông Nguyễn Hoàng Hà – Phó Trưởng phòng Xuất xứ hàng hóa, Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cho biết hiện nay, Nghị định 43/2017/NĐ-CP và Nghị định số 111/2021/NĐ-CP quy định về việc ghi nhãn hàng hóa đối với hàng hóa lưu thông tại thị trường trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Theo đó, một trong những thông tin bắt buộc thể hiện trên nhãn hàng hóa là xuất xứ của hàng hóa. Cách ghi xuất xứ có thể sử dụng trên nhãn hàng hóa gồm: “Sản xuất tại”, “Chế tạo tại”, “Xuất xứ”, “Sản phẩm của”… kèm tên quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, chưa có tiêu chí cụ thể để xác định như thế nào là “hàng hóa sản xuất tại Việt Nam” trong lưu thông nội địa.
“Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp, cơ quan quản lý, và dễ dẫn đến gian lận xuất xứ” – ông Nguyễn Hoàng Hà nhấn mạnh.

Theo ông Nguyễn Hoàng Hà, dự kiến các tiêu chí xác định xuất xứ Việt Nam đối với hàng hóa lưu thông trong nước gồm 6 tiêu chí.
Thứ nhất là xuất xứ thuần túy gồm các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, khai khoáng, đánh bắt, tái chế,…được tạo ra hoàn toàn tại Việt Nam.
Thứ hai là sản xuất từ nguyên liệu Việt Nam gồm hàng hóa sản xuất tại Việt Nam từ toàn bộ nguyên liệu có xuất xứ Việt Nam.
Thứ ba là gia công, chế biến làm thay đổi cơ bản: Sử dụng nguyên liệu nhập khẩu nhưng nếu công đoạn cuối tại Việt Nam làm thay đổi mã số hải quan - mã HS hoặc đạt tỷ lệ giá trị Việt Nam (VVC) theo quy định.
Thứ tư là không chấp nhận công đoạn gia công, chế biến đơn giản: Ví dụ đóng gói, dán nhãn, lắp ráp đơn giản, trộn đơn giản,…
Thứ năm là nguyên liệu không đáp ứng CTC: Vẫn được coi là hàng Việt nếu giá trị nguyên liệu không có xuất xứ bé hơn hoặc bằng 15% giá xuất xưởng.
Thứ sáu là các yếu tố không cần xét đến: Các yếu tố không tính vào xuất xứ hàng hóa như nhiên liệu, chất xúc tác, dụng cụ thử nghiệm, đồng phục, thiết bị an toàn,…
Bộ Tiêu chí nên được thiết kế linh hoạt, có lộ trình
Phát biểu tại Hội thảo, bà Bùi Thị Thùy Dương - Chuyên viên Ban Quản lý chất lượng và Đánh giá sự phù hợp, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho rằng, việc xây dựng một hệ thống tiêu chí áp dụng chung cho tất cả các loại hàng hóa nhằm xác định khi nào một sản phẩm được phép ghi “sản xuất tại Việt Nam” là một nhiệm vụ rất cần thiết, nhưng cũng không đơn giản.
Theo bà Bùi Thị Thùy Dương, nhiều khó khăn gặp phải do đặc thù đa dạng và phức tạp của các ngành hàng bởi mỗi ngành hàng có đặc điểm sản xuất và cấu thành giá trị rất khác nhau.
“Do đó, việc áp dụng một tiêu chí “cứng” như tỷ lệ nội địa hóa tối thiểu, ví dụ 30% hoặc 40% sẽ không phản ánh đúng thực chất trong nhiều ngành” – bà Bùi Thị Thùy Dương cho hay.

Bên cạnh đó, theo bà Bùi Thị Thùy Dương, việc xác định tiêu chí xuất xứ cho hàng hóa được xem là sản xuất tại Việt Nam còn gặp khó khăn trong vấn đề đo lường và kiểm tra thực tế.
"Việc xác định giá trị gia tăng nội địa đòi hỏi doanh nghiệp phải có hệ thống kế toán chi tiết, minh bạch, trong khi nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa đáp ứng được.
Cơ quan quản lý nhà nước cũng gặp khó trong việc kiểm tra, xác minh các chỉ số kỹ thuật như: tỷ lệ giá trị, chuyển đổi mã HS, nguồn gốc nguyên liệu...Vì vậy, nếu không có hướng dẫn rõ ràng, có thể dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau giữa các địa phương, gây chồng chéo và tình trạng khiếu kiện", bà Dương nói.
Ngoài ra, theo bà Dương, việc xác định các tiêu chí còn gặp khó khăn do việc ghi nhãn “sản xuất tại Việt Nam” không chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà còn liên quan đến thị trường, thương hiệu, uy tín quốc gia và quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, nếu xây dựng quy định quá phức tạp hoặc tốn kém chi phí chứng minh, có thể gây áp lực cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.
Trên cơ sở đó, bà Bùi Thị Thùy Dương cho rằng, việc xây dựng tiêu chí xác định hàng hóa “sản xuất tại Việt Nam” là rất cần thiết, tuy nhiên, cần được thiết kế linh hoạt, có lộ trình, phân loại theo nhóm ngành hoặc rủi ro. Đồng thời, cần có sự tham vấn rộng rãi với doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và cơ quan quản lý chuyên ngành để đảm bảo tính khả thi và đồng thuận cao trong thực tiễn áp dụng.
