Gãy xương là tổn thương hay xảy ra trong tai nạn giao thông. Nếu không được xử trí kịp thời và đúng cách, nạn nhân có thể bị di chứng tàn phế suốt đời, thậm chí đe dọa tính mạng. Việc sơ cứu ban đầu sẽ giảm được 70% biến chứng do gãy xương.
Theo hướng dẫn của Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế), trong cấp cứu thường phân 2 loại gãy xương kín và gãy xương hở. Trong đó, gãy hở tăng nguy cơ nhiễm khuẩn, để lại nhiều di chứng nếu không được sơ cứu và xử trí tốt.
Dấu hiệu nghi ngờ gãy xương bao gồm: giảm, mất vận động chi; sưng nề bầm tím; đau chói khi ấn tại chỗ, giảm đau khi được bất động.
Dấu hiệu gãy xương rõ bao gồm: Biến dạng trục chi, cử động bất thường, lạo xạo xương (không được cố gắng tìm dấu hiệu này vì làm nạn nhân rất đau), sờ thấy đầu xương gãy trồi ngay dưới da. Khi gãy xương hở sẽ chảy dịch tủy xương, lộ xương.
Nguyên tắc sơ cứu nạn nhân gãy xương cũng tuân thủ nguyên tắc chung trong cấp cứu bệnh nhân chấn thương theo các bước ưu tiên ABCDE bao gồm: Đường thở (A – Airway), Hơi thở (B – Breathing), Tuần hoàn (C – Circulation), Thần kinh (D – Disability) và Bộc lộ toàn thân (E – Exposure) để đánh giá và điều trị ngay lập tức.
Nếu không có đa chấn thương thì ưu tiên cấp cứu gãy xương chi theo nguyên tắc 3B: Hô hấp (Breathing), chảy máu (Bleeding), xương (Bone).
Sau khi đã xác định được chi gãy cần bất động ngay để ngăn ngừa tổn thương thêm phần mềm do đầu xương sắc gây ra, làm giảm đau và ngăn ngừa shock, giảm nguy cơ gãy hở do đầu xương có thể chọc thủng da.
Ngoài ra, nếu có điều kiện thì phong bế Novocain quanh ổ gãy hoặc tiêm Morphin dưới da (nếu không có tổn thương sọ não, ổ bụng kèm theo) để giúp nạn nhân giảm đau.
Để thực hiện bất động tạm thời gãy xương kín, người sơ cấp cứu cần nhận định tình trạng nạn nhân, xác định ổ gãy. Chuẩn bị đủ nẹp, cần đệm lót (bông mỡ, gạc, vải mềm…), nới lỏng quần áo nạn nhân, lấy bỏ đồ trang sức.
Dùng nẹp chắc, đủ dài để bất động trên và dưới ổ gãy một khớp, khi đặt nẹp không nắn lại xương, không ấn xương chồi, nẹp và chi sau khi bất động phải thành một khối chắc.
Đối với gãy xương hở, cần rửa vết thương bằng nước muối sinh lý, chỉ sát khuẩn xung quanh vết thương. Không thăm dò vết thương, không nắn đẩy đầu xương chồi. Đặt gạc vô trùng để biến xương hở thành xương kín, băng ép vết thương trước khi nẹp. Bất động nẹp trong tư thế gãy và tiêm phòng SAT, kháng sinh toàn thân, hồi sức.
Đối với trường hợp gãy xương tay:
Nếu gãy xương cánh tay, cần để cánh tay bị gãy sát thân mình nạn nhân, cẳng tay vuông góc với cánh tay. Tiếp theo đặt 2 nẹp, nẹp trong từ hố nách tới quá khuỷu tay, nẹp ngoài từ bả vai đến quá khớp khuỷu. Dùng 2 dây rộng bản buộc cố định nẹp ở trên và ở dưới ổ gãy. Dùng khăn tam giác đỡ cẳng tay treo trước ngực, cẳng tay vuông góc với cánh tay, bàn tay cao hơn khuỷu tay, bàn tay để ngửa. Dùng băng rộng bản băng ép cánh tay vào thân mình. Thắt nút phía trước nách bên lành.
Nếu gãy xương cẳng tay, cần để cẳng tay bị gãy sát thân mình, cẳng tay vuông góc cánh tay. Lòng bàn tay ngửa. Dùng hai nẹp, nẹp trong từ lòng bàn tay đến nếp khuỷu tay, nẹp ngoài từ đầu các ngón tay đến quá khuỷu. Dùng 3 dây rộng bản buộc cố định nẹp bàn tay, thân cẳng tay (trên, dưới ổ gãy). Dùng khăn tam giác đỡ cẳng tay treo trước ngực.
Nếu không thể gấp khuỷu tay được, không nên cố dùng sức để gấp khuỷu tay. Đặt nạn nhân nằm xuống và đặt tay bị thương dọc theo thân. Ðặt một miếng đệm dài vào giữa tay bị thương và thân. Buộc tay bị thương vào cơ thể bằng 3 dải băng rộng bản ở các vị trí quanh cổ tay và đùi, quanh cánh tay và ngực, quanh cẳng tay và bụng.
Đối với trường hợp gãy xương chân:
Nếu gãy xương cẳng chân, đặt nạn nhân nằm trên mặt phẳng, chân duỗi thẳng, bàn chân vuông góc với cẳng chân. Dùng hai nẹp đặt ở mặt trong và mặt ngoài chân gãy. Nẹp ngoài từ mào chậu (gờ trên cùng của xương chậu) đến quá gót chân, nẹp trong từ bẹn đến quá gót chân.
Nên độn bông vào hai đầu nẹp và phía trong, ngoài của các đầu xương. Buộc cố định hai nẹp với nhau ở các vị trí trên và dưới vùng gãy, trên khớp gối khoảng 3 – 5 cm và băng số 8 ở cổ chân để cố định bàn chân vuông góc với cẳng chân.
Vị trí buộc cần chắc chắn nhưng không quá chặt để đảm bảo lưu thông máu.
Nếu gãy xương đùi, đặt nạn nhân nằm trên mặt phẳng, chân duỗi thẳng, bàn chân vuông góc với cẳng chân. Dùng hai nẹp đặt ở mặt trong và mặt ngoài chân gãy. Nẹp ngoài từ hố nách đến quá gót chân, nẹp trong từ bẹn đến quá gót chân. Độn bông vào hai đầu nẹp và mấu lồi của các đầu xương cả bên trong và bên ngoài.
Buộc cố định hai nẹp với nhau lần lượt ở các vị trí trên và dưới ổ gãy, dưới khớp gối, ngang mào chậu,ngang ngực, băng số 8 để giữ bàn chân vuông góc với cẳng chân, 3 dây để cố định hai chân vào với nhau ở các vị trí: cổ chân, gối, sát bẹn.
Lưu ý, vị trí buộc cần chắc chắn nhưng không quá chặt để đảm bảo lưu thông máu.
Đối với trường hợp gãy xương cột sống:
Nếu gãy xương cột sống vùng cổ, đặt nạn nhân nằm ngửa trên cáng cứng, cố định nạn nhân vào cáng tại các vị trí trán, qua hàm trên, qua ngực, qua hông, qua đùi, qua khớp gối, qua cẳng chân, hai bàn chân.Giữ thẳng đầu và dùng gối mềm chèn hai bên cổ nạn nhân.
Nếu gãy xương cột sống vùng lưng, đặt nạn nhân nằm ngửa trên cáng cứng, giữ đầu nạn nhân nằm thẳng, hai chân thẳng, bàn chân vuông góc với cẳng chân. Dùng dây cố định nạn nhân vào cáng và cố định hai chân của nạn nhân vào nhau ở các vị trí: hông, đùi, đầu gối, cẳng chân và bàn chân. Dùng gối mềm hoặc chăn chèn hai bên hông nạn nhân.
Tất cả các trường hợp gãy xương, sau khi sơ cứu cố định vùng xương bị gãy, cần nhẹ nhàng và nhanh chóng vận chuyển bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất để được điều trị kịp thời.