Bé trai 11 tuổi ngừng thở vì điện giật

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam
VietTimes – Không may bị điện giật ở sân nhà, bé trai 11 tuổi tím tái, ngừng thở phải ép tim liên tục rồi được gia đình đưa vào viện cấp cứu.
Các bác sĩ chăm sóc vết thương hàng ngày cho trẻ bỏng điện (Ảnh - BVCC)
Các bác sĩ chăm sóc vết thương hàng ngày cho trẻ bỏng điện (Ảnh - BVCC)

Trẻ suýt phải đối mặt với tử thần vì lỗi của cha mẹ

Mới đây, đơn vị Bỏng - Khoa Chỉnh hình, Bệnh viện (BV) Nhi Trung ương đã tiếp nhận nhiều trẻ bị bỏng để lại di chứng nặng nề.

Trường hợp đầu tiên là bé trai N.T., 11 tuổi, sống ở Hà Nội. Khoảng 11h ngày 5/9, bé được gia đình phát hiện bị điện giật ngoài sân trong tình trạng tím tái, ngừng thở và được sơ cứu tại chỗ bằng cách ép tim. Sau 35 phút ép tim, bé thở lại và được chuyển đến cơ sở y tế gần nhà rồi được đưa vào BVĐK tuyến tỉnh.

Do tình trạng chuyển biến nặng, ngày 5/9 bé được chuyển đến BV Nhi Trung ương trong tình trạng thở máy, suy đa tạng, hôn mê sau ngừng tuần hoàn, bỏng điện độ 4-5 vùng cổ tay phải, cổ tay trái và vùng ngực. Ngay lập tức, bé được các bác sĩ hồi sức tích cực và phẫu thuật cấp cứu để giải phóng chèn ép khoang cẳng tay phải do hoại tử bỏng khô chèn ép.

ThS.BS Phùng Công Sáng – Phụ trách Đơn vị Bỏng – Bệnh viện Nhi Trung ương khám cho bệnh nhi (Ảnh - BVCC)

ThS.BS Phùng Công Sáng – Phụ trách Đơn vị Bỏng – Bệnh viện Nhi Trung ương khám cho bệnh nhi (Ảnh - BVCC)

Sau 1 tuần điều trị, bé không phải thở máy nhưng tình trạng suy thận cấp nặng nên được chuyển đến điều trị tại Khoa Thận và Lọc máu. Khi tình trạng suy thận được cải thiện, ngày 13/9 trẻ được chuyển đến đơn vị Bỏng – Khoa Chỉnh hình. Tại đây, bé được phẫu thuật cắt lọc hoại tử, chuyển vạt da, ghép da che phủ diện bỏng hoại tử da, gân cơ, xương.

Các bác sĩ đã lập kế hoạch kiểm tra vết thương hàng ngày và sử dụng các liệu pháp tư vấn tâm lý giúp bé giảm đau. Các bác sĩ cũng hướng dẫn gia đình tập phục hồi chức năng cho trẻ. Ngoài ra trẻ được tư vấn chế độ ăn giúp trẻ nâng cao thể trạng, hồi phục nhanh. Hiện tình trạng sức khỏe của bé đã ổn định, có thể ra viện trong vài ngày tới.

Một trường hợp thương tâm khác là bé gái 2 tháng tuổi, sống ở Hà Nội bị bỏng do người nhà lấy nhầm lọ Acid trichloracetic 80% (một chất tương tự axit axetic, được sử dụng cho điều trị mụn cóc, mụn cơm, mắt cá chân) để cho trẻ uống, thay vì lấy lọ thuốc Aquadetrim (Vitamin D3) trẻ đang dùng hàng ngày (do hình dáng và màu sắc của hai lọ giống nhau).

Sau khi gia đình nhỏ thuốc vào miệng, trẻ khóc thét, hoảng loạn. Lúc đó, cha mẹ trẻ mới phát hiện ra sự nhầm lẫn. Sau đó, bé đã được gia đình sơ cứu tại nhà bằng cách rửa khoang miệng bằng nước và đưa đến đơn vị Bỏng – Khoa Chỉnh hình. Qua thăm khám, các bác sĩ chẩn đoán bé bỏng axit độ III khoang miệng, tổn thương phổi và theo dõi bỏng thực quản. Sau 10 ngày điều trị tích cực bằng các thuốc đặc hiệu, sức khỏe của bệnh nhi ổn định và được ra viện. Tuy nhiên, trẻ vẫn cần được theo dõi tình trạng ăn uống và hô hấp để quản lý di chứng tổn thương phổi và thực quản sau bỏng.

Cha mẹ cần làm gì để phòng, tránh tai nạn bỏng cho trẻ?

ThS.BSCKII. Phùng Công Sáng – Phụ trách đơn vị Bỏng – Khoa Chỉnh hình, BV Nhi Trung ương - cho biết: Bỏng là tổn thương cấp tính của cơ thể gây nên bởi nhiệt, hóa chất, dòng điện, bức xạ. Da trẻ em mỏng và liên kết giữa các lớp lỏng lẻo hơn người lớn, nên bỏng thường nặng và sâu. Với trẻ nhỏ dưới 6 tháng tuổi, hệ miễn dịch còn yếu nên nguy cơ nhiễm trùng vùng bỏng cao, nguy cơ shock bỏng cũng cao hơn (dù diện tích bỏng không lớn 3% – 5%).

Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau gây bỏng cho trẻ em, trong đó có sự bất cẩn của người lớn trong việc chăm sóc trẻ. Bỏng chủ yếu là ở vùng cơ quan vận động (bàn tay, bàn chân), do nước sôi hoặc cháo. Bỏng bàn tay, chân hầu như không nguy hiểm đến tính mạng, nhưng lại để lại hậu quả về chức năng và thẩm mỹ theo suốt cuộc đời của trẻ.

Hình ảnh bàn tay của trẻ bị bỏng nước sôi (Ảnh - BVCC)

Hình ảnh bàn tay của trẻ bị bỏng nước sôi (Ảnh - BVCC)

Theo BS. Sáng, bỏng điện thường nặng gây ra vết bỏng sâu tới cơ xương, đặc biệt với điện cao thế hoặc điện sinh hoạt (thời gian tiếp xúc dài). Mức độ nặng của vết bỏng tùy thuộc vào cường độ dòng điện, thời gian tiếp xúc với điện. Bỏng điện có tỉ lệ tử vong cao, để lại nhiều di chứng như rối loạn nhịp tim, tổn thương cơ tim, hoại tử da, gân, cơ, di chứng ở não, gây mất hoặc giảm chức năng của cơ quan bị bỏng, ảnh hưởng đến thẩm mĩ. Trẻ có thể phải phẫu thuật tạo hình nhiều lần và phải tập phục hồi chức năng tốt thì mới có thể phục hồi.

Còn bỏng hóa chất là tình trạng bỏng xảy ra khi tiếp xúc với các loại axit hoặc bazơ. Bỏng hóa chất có thể gây phản ứng trên da hoặc cơ thể nạn nhân, làm tổn thương các cơ quan nội tạng nếu không may nuốt phải hóa chất vào người. Bỏng hóa chất hay gặp ở các vùng thẩm mỹ như mặt, mắt, ngực, bộ phận sinh dục và để lại hậu quả nặng nề về thẩm mỹ và chức năng. Mức độ nặng phụ thuộc vào loại hóa chất, nồng độ và PH của hóa chất, số lượng và thời gian hóa chất tiếp xúc với cơ thể.

Việc sơ cứu ban đầu tại nhà khi trẻ bị bỏng là một trong những yếu tố quan trọng để hạn chế độ sâu của bỏng, mức độ nặng toàn thân và tránh tình trạng bội nhiễm.Tuy nhiên việc sơ cứu cần người giám hộ trẻ phải bình tĩnh và xử trí đúng cách. Khi trẻ bị bỏng, gia đình cần nhanh chóng cách ly trẻ khỏi nguyên nhân gây bỏng.

Đối với trẻ bị bỏng điện cần nhanh chóng tách nạn nhân với nguồn điện (ngắt cầu dao, dùng gậy gỗ gạt dòng điện cao) và đưa người bệnh đến nơi thoáng mát. Nếu trẻ bị ngã, cần có phương án chống đỡ phía dưới để tránh tình trạng chấn thương nặng thêm. Gia đình cần tiến hành đánh giá hô hấp tuần hoàn, ý thức trẻ và tìm xem các chấn thương khác nếu có ngã kèm theo, để tìm cách sơ cứu cho đúng, tránh làm tổn thương cột sống cổ hoặc các chi (nếu có) bị nặng thêm. Nếu trẻ ngừng tuần hoàn thì tiến hành ép tim ngoài lồng ngực đúng cách đồng thời gọi y tế hỗ trợ. Gia đình chỉ nên di chuyển người bệnh đến cơ sở y tế khi trẻ đã được sơ cấp cứu ban đầu.

Với trẻ bị bỏng hóa chất, gia đình cần rửa ngay vùng bị bỏng, rửa liên tục bằng nước sạch càng nhiều càng tốt. Tốt nhất là rửa dưới vòi nước chảy, nếu không các tổ chức ở vùng bỏng sẽ bị tổn thương nặng hơn. Nếu bỏng mắt do hóa chất thì phải rửa mắt bằng cách ngụp mặt vào chậu nước và chớp mắt liên tục cho hoá chất trôi ra hết.

Các bác sĩ chăm sóc cho bệnh nhi bị bỏng (Ảnh - BVCC)

Các bác sĩ chăm sóc cho bệnh nhi bị bỏng (Ảnh - BVCC)

Gia đình cần nhanh chóng tháo bỏ ngay quần áo bị dính hóa chất. Khi tháo phải lưu ý bảo vệ tay của người làm động tác đó (không dùng tay trần để tháo). Không cởi quần áo người bị bỏng rất dễ gây lột da, tốt nhất là nên xé bỏ quần áo dính hoá chất. Nếu vết bỏng chảy nhiều máu, sau khi rửa sạch dưới vòi nước nên băng vết bỏng lại. Lưu ý không băng chặt và phải dùng bông, gạc sạch. Sau khi sơ cứu xong, cần chuyển ngay nạn nhân tới trung tâm y tế gần nhất để được điều trị kịp thời.

Đối với trẻ bỏng do nước sôi, bỏng hơi, cháo, ngay khi trẻ bị bỏng cần ngâm bộ phận bị bỏng (tay, chân) vào trong nước sạch, mát (từ 16 đến 20 độ C, tốt nhất trong 30 phút đầu sau khi bị bỏng). Nếu trẻ bị bỏng vùng mặt thì dùng khăn ướt mềm đắp vào mặt, nếu diện bỏng rộng thì cần chú ý giữ ấm cho trẻ ở những phần không bị bỏng. Việc này có tác dụng giảm độ sâu của bỏng và làm giảm cảm giác đau đớn cho trẻ, sau đó nhanh chóng đưa trẻ đến cơ sở y tế có điều trị bỏng để được điều trị kịp thời.

Để phòng tránh tai nạn bỏng hiệu quả và hạn chế những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra, bác sĩ khuyến cáo: Cha mẹ không nên cho trẻ chơi đùa ở nơi đang nấu ăn hoặc các nơi gần nguồn điện, dây dẫn điện, ổ cắm điện…; thức ăn, thức uống nóng, các vật dễ cháy nổ như xăng, dầu, cồn, diêm quẹt…phải để nơi an toàn và trẻ không thể với tới được; không nên đựng hóa chất trong vỏ chai đựng nước uống như như Lavie, trà C2…, nhằm tránh các nhầm lẫn có thể xảy ra; không để chung thuốc uống với những thuốc khử khuẩn, dùng ngoài.

Khi trông trẻ, người lớn cần có sự giám sát chặt chẽ, thường xuyên. Đối với những trẻ đã nhận thức được, cha mẹ cần trang bị cho các em những kiến thức, kỹ năng cơ bản để tự bảo vệ bản thân. Ngoài ra, các bậc phụ huynh và người chăm sóc trẻ cũng nên học kỹ thuật sơ cứu với một số tai nạn thương tích thường gặp để có thể sơ cứu ban đầu đúng cách trong những trường hợp không may mắc phải, nhằm hạn chế tổn thương cho trẻ.