Văn kiện Đại hội XIV đang được hoàn thiện để tiếp tục mục tiêu đưa Việt Nam thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.
GS Nguyễn Ngọc Trân, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, đóng góp một số ý kiến liên quan phát triển bền vững đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong những thập niên tới.
Công đoạn cần thiết cho hoạch định tương lai
Sau 50 năm thống nhất đất nước và 40 năm Đổi Mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã trải qua một chặng đường từ bị chiến tranh tàn phá nặng nề đến những thành tựu khá toàn diện. Nhân dân trong nước nức lòng tham gia đóng góp, được cộng đồng thế giới xem như là một hình mẫu phát triển thành công.
Đọc lại văn kiện các kỳ Đại hội Đảng để nhận diện những gì làm được và chưa được, đánh giá đúng hiện trạng, làm rõ nguyên nhân của các tồn tại bất cập - mà nếu không có, đất nước còn tiến xa hơn nữa - là một công đoạn không thể thiếu và cần làm tốt, cơ sở cho mọi dự phóng tương lai.
Tình trạng ngăn cách, nhiều chồng chéo, thiếu phối hợp giữa các Bộ ngành vẫn còn là một tồn tại chưa khắc phục được, sau gần 8 năm Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa 12 về "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả" được ban hành.
Từ nhiều năm rồi, nhiều thành phố lớn, trước nhất là Hà Nội và TP.HCM ra sức chống ngập, nhưng vẫn chưa khắc phục được. Biến đổi khí hậu nước biển dâng không phải là nguyên nhân duy nhất.

Bắt đầu từ năm 2009, thu nhập bình quân đầu người ở ĐBSCL liên tục tụt giảm so với bình quân cả nước. Hai nguyên nhân chính là ĐBSCL còn là vùng trũng về giáo dục và đào tạo, hạ tầng cơ sở giao thông vận tải yếu kém, mặc dù nguồn nhân lực và hạ tầng cơ sở giao thông là hai mũi đột phá chiến lược mà các Đại hội Đảng lần thứ XI, XII và XIII đã nghị quyết.
Ba ví dụ dẫn ra trên đây cho thấy đánh giá đúng hiện trạng, làm rõ nguyên nhân của các yếu kém, bất cập vẫn còn là một nhiệm vụ cần được triển khai tích cực và hiệu quả hơn nữa.
Đánh giá đúng là đánh giá hiện trạng toàn diện, khoa học và khách quan. Làm rõ nguyên nhân, đặc biệt của các tồn tại và bất cập đã từ nhiều năm chưa khắc phục được, là tìm đầy đủ và đi đến cội nguồn của nguyên nhân. Làm tốt nhiệm vụ này, chúng ta còn tích lũy được những tri thức từ thực tiễn về quản lý đất nước trong bối cảnh quốc tế phức tạp hiện nay.
Biến động, bất định trong bức tranh toàn cầu
Khi Việt Nam được kết nạp là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2006, một hình ảnh đã ví “nền kinh tế Việt Nam như con thuyền, trước chỉ đi trong sông, giờ đây ra biển cả”. Biển cả cách đây gần 20 năm khi chúng ta gia nhập WTO, mặc dù không ít sóng gió, là khá yên tĩnh so với biển cả hiện nay.

Biến đổi khí hậu, nước biển dâng từ sự ấm lên của khí hậu toàn cầu; đại dịch Covid-19, toàn cầu hóa kinh tế; các tranh chấp địa chính trị, là những thách thức đã từng xảy ra, nhưng cái mới là lần này chúng diễn ra hầu như cùng một lúc, tác động tổng hợp và liên hoàn với nhau khiến cho thiệt hại là đa diện, và khó lường.
Biến động và bất định là đặc điểm của bối cảnh thế giới hiện nay mà nhân loại sẽ phải chung sống trong nhiều năm sắp tới. Quốc gia nào nắm bắt được đặc điểm, tăng cường năng lực dự báo, tính toán bước đi và tiên liệu các biện pháp ứng phó, sẽ ít bị động và tạo ra cho mình một lợi thế tương đối trong phát triển.
Cũng cần phải nói cho đầy đủ là không phải tất cả đều là bất định. Biến đổi khí hậu, nước biển dâng, sự sụt lún và sạt lở bờ biển, bờ sông, sự khan hiếm nước ngọt, sự phân hóa giàu nghèo, nguồn cội của áp bức, là những xu hướng đã rõ. Nguồn nước và trầm tích sông Mekong về ĐBSCL ngày càng giảm, chiến tranh “lạnh” âm thầm vẫn nóng do những cuộc xung đột địa chính trị cũng vậy.
Khoa học - công nghệ thay đổi sâu sắc thế giới
Trong 250 năm qua, 4 cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) đã nối tiếp nhau trên nền các tiến bộ khoa học và công nghệ.
Cuộc CMCN lần thứ nhất với sự phát minh của máy hơi nước năm 1769 mở ra thời kỳ cơ giới hóa, hình thành tầng lớp tư sản phi nông nghiệp và tầng lớp những người lao động công nghiệp. Về mặt xã hội, Cách mạng Pháp năm 1789 bùng nổ chỉ 20 năm sau cuộc CMCN lần thứ 1.
Cuộc CMCN lần thứ 2 ra đời với sự phát minh bảng mã tín hiệu Morse (1840), sự phát hiện dầu hỏa (1859), và nhất là điện trở thành nguồn năng lượng chủ lực thay thế dần hơi nước (1882). Sản xuất hàng loạt, sản xuất dây chuyền trở thành hiện thực Thời đại công nghiệp hóa bắt đầu. Giai cấp công nhân được tổ chức để chống lại bóc lột, bảo vệ quyền lợi của mình. Cương lĩnh của Đảng Cộng sản chào đời rồi Cách mạng Tháng Mười Nga bùng nổ trong bối cảnh kinh tế, xã hội toàn cầu như vậy.
Cuộc CMCN lần thứ 3 ra đời với máy tính điện tử đầu tiên vào các năm 1950, khai sinh thời đại số hóa và công nghệ số. Toán học tính toán mở ra triển vọng cho xấp xỉ số và mô phỏng số các hiện tượng, các bài toán ngày càng phức tạp. Internet và công nghệ thông tin truyền thông đã cùng nhau tạo nên “nền kinh tế số”, mang lại những chuyển đổi sâu rộng trong nhiều lĩnh vực từ nông nghiệp, giáo dục đến y tế và quản trị doanh nghiệp, quản lý nhà nước. Thông tin bùng nổ.
Khoảng 40 năm sau, cuộc CMCN lần thứ 4 ra đời, “gối đầu” lên cuộc CMCN 3 (vẫn đang tiếp diễn) với Internet đám mây, Internet kết nối vạn vật và điện thoại thông minh, dữ liệu lớn, khối dữ liệu kết chuỗi. CMCN 4 song hành và hưởng thụ thành quả của CMCN 3. Đối tượng của nó là mọi hệ thống điều khiển và đối thoại được. Vì lẽ này, CMCN 4 còn được gọi là cuộc cách mạng điều khiển (cybernetic).

CMCN 4 tác động to lớn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Các bài toán như phát triển bền vững, quy hoạch lãnh thổ - từ nay được tiếp cận toàn diện, hệ thống, không còn giới hạn theo từng lĩnh vực khoa học riêng lẽ. Các giải pháp hơn kém nhau ở cách tiếp cận xuyên lĩnh vực và biết sử dụng tích hợp các công nghệ. Về mặt xã hội, có ý kiến cho rằng “CMCN 4 đã thay đổi cách chúng ta sống, làm việc và quan hệ với mọi người”.
Robot ngày càng thông minh và “sinh học hóa”. Trí tuệ nhân tạo ngày càng can dự vào các lĩnh vực vốn dĩ thuộc con người, đặt ra nhiều vấn đề về an ninh, về đạo đức.
Với 4 cuộc CMCN mà mình đã tạo ra, đáng lý loài người có thể có cuộc sống ấm no, yên bình, hài hòa giữa lao động và nghỉ ngơi, kiến thức không ngừng được mở rộng, được hưởng thụ những tinh hoa văn hóa của nhân loại, trong công bằng và tiến bộ xã hội, trong hòa bình và hợp tác giữa các quốc gia.
Rất tiếc các thành tựu khoa học và công nghệ cũng đã được tạo ra và sử dụng không theo hướng đó - mà để một mặt khai thác, cải tạo thiên nhiên ngày càng quy mô, đôi khi bất chấp quy luật tự nhiên và sức chịu đựng của môi trường; mặt khác tạo ra lợi nhuận cho thiểu số. Bên cạnh ngăn cách giàu nghèo, đã phát sinh thêm ngăn cách số và giờ đây thêm ngăn cách (biết sử dụng) AI.
Trong bối cảnh như trên, Nghị quyết của Bộ Chính trị số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, ban hành rất đúng lúc để đất nước đi vào kỷ nguyên mới, với nhận thức đầy đủ về những cảnh báo và thách thức.
Về mô hình tăng trưởng
-Cơ cấu của mô hình tăng trưởng:
Từ thế kỷ 17, ở châu Á đã lưu truyền câu “phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng” - nói lên nhận thức về vị trí và tầm quan trọng của nông nghiệp, của chế biến chế tạo, của thị trường và của tri thức vào thời điểm đó.
Năm 1948, một lý thuyết về các khu vực kinh tế của Colin Clark được Liên Hiệp Quốc chấp nhận. Kể từ đó, tăng trưởng kinh tế được đo bằng tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong 3 khu vực. KV1 (khai thác tài nguyên), KV2 (công nghiệp chế biến, chế tạo) và KV3 (Thương mại dịch vụ). Yếu tố trí chưa hiển hiện mà ẩn trong 3 KV, thông qua áp dụng khoa học công nghệ.
Hiện nay nhiều ý kiến cho rằng đã đến lúc cần xem xét bổ sung vào cơ cấu của tổng sản phẩm quốc nội khu vực thứ tư (KV4) - được hình thành từ thu nhập riêng biệt (không trùng lắp với các dịch vụ cho các KV 1, 2, 3 đã quen thuộc). Đã và đang hình thành các hoạt động có thu nhập như Phân tích dữ liệu lớn (Big Data Analytics) trả phí theo giờ hoặc theo dự án; Bán hoặc cho thuê mô hình AI đã huấn luyện (AI-as-a-Service); Dịch vụ tư vấn chiến lược dữ liệu và đưa ra khuyến nghị tự động, Công ty dịch vụ phần mềm…
Thiết nghĩ không quá sớm để bên cạnh cách tính GDP quen thuộc, Chính phủ nên triển khai thí điểm sớm một cách tính GDP có KV4 để khích lệ các nhà khoa học tham gia vào kinh tế từ chuyên môn của mình, doanh nhân hình thành các doanh nghiệp mà doanh thu đến trực tiếp từ tri thức.
- Mô hình tăng trưởng:
(1) Chúng ta đã biết các mục tiêu Việt Nam quyết tâm đạt được vào năm 2030 và năm 2045. Từ cơ sở dữ liệu của WB, ngưỡng để đạt nhóm các nước có thu nhập trung bình cao (UM), ngưỡng để đạt nhóm các nước có thu nhập cao (H) và GNI (thu nhập bình quân đầu người) của Việt Nam biến động trong 25 năm (2000-2024) và 10 năm (2015-2024) - cho thấy năm 2024 (năm tài chính đến 1/7/2025) Việt Nam còn thiếu 6 USD hiện hành để đạt ngưỡng thu nhập trung bình cao - mục tiêu đề ra cho năm 2025.
Đạt mục tiêu này vào năm 2025 chắc sẽ không có vấn đề. Đạt mục tiêu vào năm 2045 thì cần phải nỗ lực nhiều, bởi lẽ khi đó ngưỡng H sẽ là 18.674 USD và GNI của Việt Nam phải tăng hàng năm bình quân trong 20 năm tới khoảng 720 USD. Một phương án khác là tăng nhanh hơn nữa ở 2 hoặc 3 kế hoạch 5 năm đầu - bắt đầu từ 2026 và chậm hơn về tốc độ ở các kế hoạch 5 năm còn lại.
Đây là một thách thức đa chiều vì tăng trưởng không chỉ có nhanh mà còn phải đi kèm với bảo vệ môi trường và công bằng và tiến bộ xã hội, để phát triển nhanh và bền vững, một chủ trương hàng đầu của Đảng.
(2) Đại dịch Covid-19 đã cho chúng ta một bài học bổ ích. Mô hình tăng trưởng của Việt Nam phải vừa bảo đảm tăng trưởng nhanh, vừa hạn chế ở mức thấp nhất tác động tiêu cực của biến động và bất định - vì độ mở của nền kinh tế Việt Nam là khá cao. Phải chăng mô hình tăng trưởng cần dựa trên 3 cột trụ: nền tảng ổn định, tăng sức chịu đựng, và phát huy các thế mạnh của Việt Nam trong đó có yếu tố trí tuệ.
(3) Việc xác định mô hình tăng trưởng còn cần các cơ chế chính sách để đạt mục tiêu vào năm 2045. Các ngưỡng phân định nhóm UM, và nhóm H - là những mục tiêu động, thay đổi qua các năm và nhìn chung tăng. Nếu số hóa được những đổi mới về cơ chế chính sách và quyết tâm vươn lên của cả nước, mô phỏng số sẽ cung cấp những lời giải để Đảng và Nhà nước lựa chọn cho bài toán này.
(4) Với đường lối Đổi mới, thị trường không phải là một phạm trù kinh tế của riêng chủ nghĩa tư bản, và Việt Nam quyết tâm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Định hướng xã hội chủ nghĩa - được thể hiện ở khâu xác định mô hình tăng trưởng, hay ở khâu phân phối lại lợi nhuận theo phương châm “không để ai tụt lại phía sau, người dân là trung tâm, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của phát triển”. Hay đồng thời tiến hành cả hai?
Giải đáp thành công câu hỏi sẽ là một đóng góp quan trọng vào việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, một phủ định biện chứng của chủ nghĩa tư bản, một hình thái xã hội cao hơn, nhân văn và nhân bản hơn.
(5) Bộ Chính trị vừa ban hành 4 Nghị quyết quan trọng. Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia - là cơ bản để thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ phát triển và đóng góp trở lại cho nền kinh tế đất nước, đặc biệt vào KV4 để vượt qua bẫy thu nhập trung bình. Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân - là cơ bản để thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, và không chỉ các doanh nhân mà cả các nhà khoa học thành lập các doanh nghiệp tri thức.
Hai nghị quyết, được cụ thể hóa bằng những cơ chế chính sách phù hợp, sẽ góp phần định hình mô hình phát triển vừa căn cơ vừa đột phá, đưa nước nhà sớm trở thành một nước phát triển có thu nhập cao, định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về công tác quy hoạch:
- Tăng trưởng kinh tế đạt kết quả như thế nào tùy thuộc vào hệ thống quy hoạch quốc gia, từ tổng thể, ngành đến các vùng sinh thái - kinh tế. Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động quy hoạch được Luật Quy hoạch quy định là: “Bảo đảm sự tuân thủ, tính liên tục, kế thừa, ổn định, thứ bậc trong hệ thống quy hoạch quốc gia”.
Tác giả cho rằng, để đảm bảo vừa sự thống nhất, vừa sát với thực tế ở cơ sở, cần có sự đối thoại định kỳ và đột xuất 2 chiều trên xuống và dưới lên. Yêu cầu này càng cần thiết trong bối cảnh biến động và bất định hiện nay.
- Quy hoạch tích hợp đa ngành là một yêu cầu đối với quy hoạch tổng thể một vùng lãnh thổ (QHVLT).
Khuyến cáo về công tác này, từ thực tiễn, Tổ chức Lương Nông (FAO) của Liên Hiệp Quốc đã nhận xét khái quát: “Một nhóm chuyên gia chuyên ngành nhưng biết tiếp cận vấn đề tổng hợp, sẽ đề xuất cách giải quyết các mâu thuẫn giữa các ngành trong quy hoạch có hiệu quả hơn một tập hợp đông các người có trách nhiệm và chuyên gia, nhưng mỗi người chỉ biết bảo vệ lợi ích của ngành, của địa phương mình”.
Bài “Từ thực tế đồng bằng sông Cửu long, tiến tới một quy trình quy hoạch vùng lãnh thổ tích hợp minh bạch” tác giả đã viết về công tác này và đề xuất một quy trình để góp phần tháo gỡ.
- Đảm bảo tính khả thi và bền vững của các dự án đầu tư:
Triển khai quy hoạch sẽ thực hiện các dự án đầu tư được ghi trong quy hoạch. Để phát triển vùng được bền vững, cần đảm bảo tính khả thi và bền vững của các dự án đầu tư này.
Trên thực tế, có không ít dự án được ghi vào quy hoạch nhưng chưa được nghiên cứu kỹ. Còn có dự án được ghi vào quy hoạch cốt để tìm nhà đầu tư. Một số dự án đầu tư công nhiều nghìn tỷ đồng đã được triển khai, đã đi vào hoạt động từ nhiều năm nhưng đối chiếu với mục tiêu đề ra thì không hoặc chưa đạt yêu cầu. Giải thích tình trạng này, các chủ đầu tư nói rằng vì mới là “giai đoạn 1”. Nhưng hỏi dự án có bao nhiêu giai đoạn, đến khi nào hoàn thành và tổng vốn đầu tư ước là bao nhiêu, thì được giải đáp là đã căn cứ các quy định của Luật Xây dựng (2014).
Để quy hoạch được triển khai tốt, vốn đầu tư công được sử dụng có hiệu quả cao, những điều kiện cần để quyết định một dự án đầu tư có hợp phần xây dựng và trách nhiệm trong phân kỳ đầu tư, cần được luật pháp quy định chặt chẽ hơn.
- Theo dõi và đổi mới công nghệ trong quy hoạch: Quy định và quy chuẩn.
Theo dõi công nghệ là hết sức quan trọng trong công tác quy hoạch. Cách đây khoảng một thập kỷ, nhìn về Ninh Thuận chỉ thấy nắng và khô cằn. Điện mặt trời đã thay đổi hoàn toàn đánh giá tiềm năng vùng đất này.
Phải thay đổi kịp thời các quy định, quy chuẩn để sớm áp dụng các công nghệ mới, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công trong các dự án đầu tư.
Ở ĐBSCL, nhất là ở Tây Nam sông Hậu, nơi có nhiều đồng lũ, cao trình mặt đất thấp, nền đất từ yếu đến rất yếu, căn cứ vào quy định về suất đầu tư mà không tính sòng phẳng và đầy đủ các hạng mục, vào quy chuẩn; trì hoãn việc ứng dụng những công nghệ đã được sử dụng rộng rãi trên thế giới, “làm ngơ” trước những thành tựu ở Việt Nam; trì hoãn tăng tỷ lệ các đoạn cao tốc trên cầu cạn như chính Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo - là những biện minh khó chấp nhận.
Về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực, quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển, càng quan trọng hơn trong bối cảnh biến động và bất định.
Trong các nguồn lực để triển khai quy hoạch không như nguồn vốn và nguyên vật liệu - được sử dụng là không còn, chất xám của nguồn nhân lực sau sử dụng được tích lũy và giàu thêm.

Thế giới càng hội nhập, càng cạnh tranh thì nguồn nhân lực đã qua đào tạo, có tay nghề và trình độ càng quan trọng, là thành tố của sức cạnh tranh quốc gia, là động lực của sức sáng tạo quốc gia. Vì lẽ đó các tài năng được săn đón, chào mời và tranh giành.
Cần nhấn mạnh thêm là cùng với hạ tầng cơ sở giao thông, nguồn nhân lực đã qua đào tạo, có tay nghề và trình độ là một yếu tố để các nhà đầu tư nước ngoài quyết định đầu tư FDI vào một nước, một địa phương.
Chúng ta không quên một tiềm lực tri thức người Việt Nam hoặc gốc Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài. Khoảng cách không gian không còn là một cản trở họ cộng tác với trong nước. Trên thực tế, đã có không ít cộng tác trong - ngoài nước qua mạng. Vấn đề là xác lập được đối tác và có chính sách, để sự cộng tác phục vụ tích cực hơn nữa sự phát triển của đất nước.
Nói tới nguồn nhân lực là trước tiên nói tới đào tạo. Đào tạo các ngành nghề gì trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển ngày càng nhanh, vừa để đáp ứng thị trường lao động trước mắt, vừa tạo dựng cho đất nước một nền tảng khoa học cơ bản cho phép tiếp cận được những phát minh mới nhất trên thế giới? Một hướng giải đáp là cần “nhúng” công tác này vào môi trường của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mà đặc trưng là sự tiếp cận tổng hợp, sự xóa mờ ranh giới giữa các khoa học, là sự tích hợp các công nghệ, dẫn đến những đổi thay lớn và nhanh chưa từng thấy, vào môi trường hội nhập quốc tế mà đặc biệt là công nghệ thông tin truyền thông đã cùng nhau tạo nên “ nền kinh tế số ”, mang lại những chuyển đổi sâu rộng trong nhiều lĩnh vực từ nông nghiệp, giáo dục đến y tế và quản trị là hợp tác đi đôi với cạnh tranh, là sự di chuyển lao động và sự giành giật tài năng.
Theo tôi, nội hàm và yêu cầu cụ thể của “đổi mới giáo dục và đào tạo cơ bản và toàn diện” để đất nước đồng hành cùng cuộc CMCN 4, là bên cạnh lòng yêu nước, cốt lõi là đào tạo con người làm chủ, năng động, có khả năng thích ứng, sáng tạo và có tư duy độc lập.
Đào tạo ra những con người như thế, còn phải biết sử dụng, phát huy và gìn giữ đi đôi với thu hút tài năng để nguồn nhân lực của đất nước ngày càng mạnh, đông về số lượng, cao về chất lượng. Đây là những vấn đề thuộc lĩnh vực chính sách, chiến lược của Nhà nước mà các quốc gia đều chăm lo.
Tôi tin ở bản lĩnh của dân tộc và trí tuệ Việt Nam, với sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng, sẽ lèo lái con tàu Việt Nam không bị sóng gió của biển cả dồn dập, sẽ xây dựng thành công “một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”, như Bác Hồ đã viết trong Di chúc.

Để trở thành nước thu nhập cao, 14.000-15.000 USD/người, cần phải "nhờ cậy" vào KHCN, ĐMST và CĐS
