Viện trưởng Viện Khoa học hình sự: Cần bổ sung thông tin mống mắt, ADN, giọng nói vào CSDL căn cước

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

VietTimes – Trái với nhiều ý kiến lo ngại việc thu thập thông tin sinh trắc học có thể vô tình tiếp tay cho lừa đảo trực tuyến, đại biểu Nguyễn Tiến Nam cho rằng đây là đòi hỏi tất yếu trong công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Đại biểu Nguyễn Tiến Nam (đoàn Quảng Bình) - Viện trưởng Viện Khoa học hình sự Bộ Công an.
Đại biểu Nguyễn Tiến Nam (đoàn Quảng Bình) - Viện trưởng Viện Khoa học hình sự Bộ Công an.

Trao đổi về dự án Luật Căn cước tại hội trường Quốc hội, diễn ra chiều 22/6, trong khuôn khổ kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XV, đại biểu Nguyễn Tiến Nam (đoàn Quảng Bình) - Viện trưởng Viện Khoa học hình sự Bộ Công an - đánh giá đây là dự luật có vai trò đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, liên quan đến quyền con người, quyền công dân.

Ông Nam cho rằng việc thu thập thông tin sinh trắc học trong cơ sở dữ liệu căn cước là cần thiết.

Dự thảo Luật Căn cước quy định thông tin sinh trắc học gồm ảnh khuôn mặt, vân tay, mống mắt, AND, giọng nói. Trước đó, Luật Căn cước công dân năm 2014 còn có cả mống mắt, ADN, ảnh chân dung thay bằng ảnh khuôn mặt. Đây là những thông tin đặc trưng của mỗi người có tính cá biệt, ổn định rất cao.

Ông Nam nhắc đến một số ý kiến lo ngại về việc thu thập các thông tin sinh trắc học này ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân, có thể làm lộ, lọt thông tin cá nhân liên quan đến các lĩnh vực bảo mật, có thể bị tội phạm lợi dụng lừa đảo, chiếm đoạt tài sản.

Chẳng hạn như đối tượng sử dụng công nghệ cao tạo ra các sản phẩm có giọng nói, hình ảnh, khuôn mặt làm giả người quen với độ chính xác rất cao để lừa đảo, hay tội phạm làm giả giấy tờ, tài liệu của công dân như thẻ căn cước, thẻ ngân hàng, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Theo số liệu thống kê của Tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol), năm 2019 có 70 quốc gia thành viên Interpol đã xây dựng cơ sở dữ liệu ADN, trong đó, châu Á 13 quốc gia, châu Âu 40 quốc gia, châu Mỹ 10 quốc gia và châu Phi 7 quốc gia.

31 quốc gia có cơ sở dữ liệu ADN chuyên dùng để tìm kiếm người mất tích, nhưng tỷ lệ thu thập dữ liệu còn thấp: Nước nhiều nhất là 4,9% tổng dân số, nước ít nhất là 0,2% tổng dân số.

Ông Nguyễn Tiến Nam cho biết, hiện nay, Viện khoa học hình sự Bộ Công an đã xây dựng và từng bước bổ sung hệ thống cơ sở dữ liệu ADN thông qua công tác chuyên môn.

Tuy nhiên, từ góc độ chuyên môn, Viện trưởng Viện Khoa học hình sự cho rằng việc thu thập thông tin sinh trắc học là cần thiết để truy nguyên trực tiếp cá thể người, giúp quá trình quản lý công dân được chính xác, khoa học, dễ dàng, phù hợp với xu hướng phát triển của công nghệ hiện nay của các nước phát triển trên thế giới.

Việc này có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Thực tiễn có nhiều vụ án, vụ việc không xác định được đối tượng, nhưng qua công tác điều tra, thu thập các dấu vết sinh trắc học như dấu vết đường vân tế bào người có ADN hay hình ảnh có khuôn mặt, thì sẽ giúp truy tìm được đối tượng thông qua giám định hoặc đối sánh trên cơ sở dữ liệu về sinh trắc học.

Do đó, việc thu thập các thông tin sinh trắc học này là đòi hỏi tất yếu của thực tiễn trong công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Lãnh đạo Viện Khoa học hình sự Bộ Công an gợi ý việc thu thập vân tay, ảnh mặt, mống mắt, giọng nói có thể làm ngay cùng lúc với việc thu thập thông tin công dân trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, còn ADN có thể tính toán làm từng bước theo lộ trình.

Vì để thu thập, phân tích, lưu giữ kiểu gen, khai thác, sử dụng thông tin ADN cần phải đầu tư phòng thí nghiệm, thiết bị phân tích và hóa chất, vật tư tiêu hao, về kinh phí và nhân lực rất lớn.

Thảo luận về dự án Luật, các đại biểu Quốc hội lưu ý làm rõ tính hợp lý của 24 nhóm thông tin của công dân được thu thập, tích hợp trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Ngoài 24 trường dữ liệu thu thập, thì dự kiến cơ quan chức năng sẽ thu thập, tích hợp cả những thông tin khác của công dân mà được chia sẻ từ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành.

Các đại biểu đề nghị cần cân nhắc quy định này, bởi trên thực tế cơ sở dữ liệu chuyên ngành sẽ bao gồm rất nhiều lĩnh vực.

Có nhiều đại biểu ủng hộ việc quy định chủ thể được khai thác thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bao gồm các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng các thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư rất rộng, trong đó có những thông tin liên quan đến đời sống riêng tư của công dân.

Do đó, các đại biểu đề nghị rà soát và quy định cụ thể về phạm vi thông tin mà từng chủ thể được khai thác theo nguyên tắc bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ cụ thể của chủ thể khai thác.