Vì sao Moody’s điều chỉnh triển vọng hệ thống ngân hàng Việt Nam từ “tích cực” sang “ổn định”?

VietTimes -- Hãng xếp hạng tín nhiệm Moody’s (Moody’s) vừa thay đổi triển vọng của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ mức “tích cực” sang “ổn định”, tương ứng với mức Ba3.
Ảnh minh họa (Nguồn: Moody's)
Ảnh minh họa (Nguồn: Moody's)

Moody’s vừa công bố báo cáo về ngành ngân hàng của Việt Nam, tạm dịch: “Triển vọng hệ thống ngân hàng Việt Nam: Tăng trưởng kinh tế và cải thiện chất lượng tài sản hỗ trợ triển vọng ổn định” (Banking System Outlook - Vietnam: Economic growth and improving asset quality support stable outlook).

Báo cáo này được thực hiện bởi đồng tác giả là Eugene Tarzimanov – Phó Chủ tịch và Giám đốc tín dụng cấp cao của Moody’s và Rebeca Tan – chuyên gia phân tích tại Moody’s.

Chuyên gia Eugene Tarzimanov cho biết, tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam vẫn ở mức cao và chất lượng tài sản của các ngân hàng sẽ tiếp tục xu hướng cải thiện, giúp tăng cường khả năng sinh lời.

Tuy nhiên, chuyên gia Rebeca Tan cũng lưu ý rủi ro liên quan đến tài sản của các ngân hàng Việt Nam hiện vẫn còn còn rõ rệt sau nhiều năm tăng trưởng tín dụng nhanh. Bên cạnh đó, các tác động tiêu cực của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung sẽ khiến nền kinh tế Việt Nam bị tác động bởi đà giảm tốc của các hoạt động thương mại là rủi ro đối với ngành ngân hàng cũng được vị chuyên gia này nhắc tới.

Đánh giá của Moody’s dựa trên 6 tiêu chí đánh giá, bao gồm: môi trường hoạt động (ổn định); rủi ro tài sản (cải thiện); nguồn vốn (ổn định); tài trợ và thanh khoản (ổn định); lợi nhuận và sự hiệu quả (cải thiện); và sự hỗ trợ của chính phủ (ổn định).

Về môi trường hoạt động, Moody’s cho biết tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ ở Việt Nam sẽ hỗ trợ cho môi trường hoạt động của hệ thống ngân hàng.

Hãng này cũng kỳ vọng tăng trưởng GDP thực của Việt Nam vẫn sẽ là một trong những nước cao nhất trong khu vực Asean, ở mức 6,7% năm 2018 và 6,5% năm 2019 nhờ vào khả năng cạnh tranh, xuất khẩu và tiêu thụ nội địa.

Tăng trưởng tín dụng sẽ ở vào khoảng 16% năm nay, thấp hơn mức 20% năm 2017, khi chính phủ muốn kiểm soát lạm phát ở mức dưới 4%.

Về chất lượng tài sản, Moody’s cho rằng các ngân hàng Việt Nam sẽ sớm cải thiện chất lượng tài sản trong 12-18 tháng tới, bởi vì tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ sẽ cải thiện khả năng trả nợ của người đi vay và cho phép các ngân hàng đẩy nhanh hơn việc xóa bỏ (write-off) các tài sản có vấn đề.

Tuy nhiên, Moody’s cũng bày tỏ lo ngại việc tăng trưởng tín dụng nhanh chóng trong những năm gần đây có thể dẫn đến sự suy giảm chất lượng tài sản khi các khoản vay mới đáo hạn, mặc dù tình trạng này khả năng không xảy ra trong giai đoạn đánh giá triển vọng trong 12-18 tháng tới.

Moody's kỳ vọng nguồn vốn của các ngân hàng ở mức tương đối ổn định. Việc kiểm soát chặt tăng trưởng tài sản sẽ làm giảm áp lực lên vốn của các ngân hàng, trong khi khả năng tạo vốn nội bộ tiếp tục được cải thiện cùng với khả năng sinh lời tại hầu hết các ngân hàng được xếp hạng.

Nguồn vốn huy động đầu vào sẽ giữ ở mức ổn định khi tăng tưởng cho vay chậm lại. Đáng chú ý, báo cáo của Moody’s chỉ ra rằng tăng trưởng tiền gửi của các ngân hàng khá mạnh mẽ, làm giảm sự phụ thuộc vào các nguồn vốn nhạy cảm với thị trường, chẳng hạn như vay liên ngân hàng.

“Khi tăng trưởng cho vay điều chỉnh theo tốc độ tăng trưởng tiền gửi, tỷ lệ cho vay/tiền gửi của ngân hàng sẽ được duy trì ổn định” – Moody’s cho biết.

Về lợi nhuận, các ngân hàng sẽ cho thấy khả năng sinh lời tốt hơn khi lãi suất tiếp tục được cải thiện nhờ đẩy mạnh cho vay phân khúc doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời, chi phí tín dụng được kỳ vọng giảm khi các ngân hàng giảm lượng tài sản có vấn đề.

Moody’s cho rằng chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục hỗ trợ các ngân hàng khi cần thiết, chủ yếu dưới hình thức hỗ trợ thanh khoản và giãn nợ từ phía ngân hàng trung ương.

Moody’s cũng đánh giá tín nhiệm cho 16 ngân hàng Việt Nam – vốn chiếm 61% tổng tài sản trong hệ thống ngân hàng tại thời điểm cuối năm 2017.

Trong đó, 3 trên 16 ngân hàng do Chính phủ kiểm soát được Moody’s thống kê kết quả chi tiết là: Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV, B1 ổn định, b2), Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank, B1 ổn định, ba3) và Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank, B1 ổn định, b1)./.