Vé liên thông toàn quốc - giải pháp đột phá trong giao thông công cộng

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, việc triển khai thẻ vé thông minh không chỉ là câu chuyện kỹ thuật, mà còn là chiến lược quốc gia.

Việc tích hợp trong thanh toán vé giúp giảm thiểu thủ tục, đồng thời nâng cao tính an toàn và tiện lợi, liên thông, hướng tới một hệ thống giao thông công cộng văn minh, hiện đại và kết nối toàn quốc.

Đây là nội dung được các đại biểu trao đổi tại Tọa đàm "Giải pháp thanh toán thông minh phục vụ giao thông hiện đại" do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức ngày 20/5, tại Hà Nội.

Ảnh đại biểu.jpg
Khách mời tham gia tọa đàm Tọa đàm "Giải pháp thanh toán thông minh phục vụ giao thông hiện đại".

Yêu cầu cấp thiết

Dưới góc độ cơ quan quản lý, ông Đỗ Việt Hải - Phó Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội - nhấn mạnh TP đã sớm đặt mục tiêu xây dựng hệ thống thẻ vé thông minh, dựa trên nhu cầu thực tế và chính sách không dùng tiền mặt trong giao thông công cộng. Không dừng lại ở kết nối nội đô, hệ thống này còn có khả năng liên kết với các dịch vụ khác như thu phí tự động, bãi đỗ xe và các loại hình vận tải trong tương lai.

Với vai trò là một trong những địa phương tiên phong, Hà Nội đang từng bước hiện thực hóa hệ thống thẻ vé điện tử liên thông.

Để làm được điều này, Hà Nội đã ban hành nhiều quyết định phê duyệt Đề án Giao thông thông minh. Theo đó, hệ thống vé liên thông bằng hình thức thuê dịch vụ CNTT sẽ khai trương từ ngày 2/9/2025.

Hệ thống thẻ vé mới áp dụng tiêu chuẩn bảo mật VCCS – một bộ tiêu chuẩn thẻ chip nội địa được hỗ trợ bởi NAPAS. Nhờ đó, thẻ ngân hàng, ví điện tử, thậm chí cả CCCD có thể tích hợp vào hệ thống vé, đưa Hà Nội trở thành hình mẫu đô thị thông minh.

Tuy nhiên, theo ông Hải, vẫn còn 2 thách thức lớn: thay đổi thói quen người dân, nhất là người cao tuổi, và giải quyết việc làm cho khoảng 4.000 lao động bán vé thủ công trên xe bus. “Chúng tôi tin rằng khi vận hành hiệu quả, hệ thống sẽ không chỉ phục vụ giao thông công cộng mà còn mang lại nguồn dữ liệu quý cho phát triển kinh tế - xã hội”, ông Đỗ Việt Hải nói.

Ảnh chân dung.JPG
Ông Nguyễn Hoàng Long, Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần thanh toán quốc gia (NAPAS).

Dưới góc độ đơn vị trung gian thanh toán, ông Nguyễn Hoàng Long, Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần thanh toán quốc gia (NAPAS), cho biết tại TP.HCM, hệ thống Metro số 1 đã triển khai mô hình thanh toán không dùng tiền mặt với sự phối hợp từ NAPAS và các tổ chức tài chính quốc tế như Visa, Mastercard. Về phía mình, NAPAS đã chuẩn bị đầy đủ hạ tầng kỹ thuật để tích hợp hệ thống vé tự động. Việc này giúp người dân sử dụng thẻ ngân hàng, cả nội địa lẫn quốc tế, để đi metro, không cần thêm thẻ chuyên dụng.

"Thời gian chuẩn bị thì lâu nhưng làm rất nhanh, vì việc kết nối thực sự giữa NAPAS và thanh toán tự động trong Metro TP.HCM chỉ triển khai trong 20 ngày bởi những thứ như tiêu chuẩn kỹ thuật đều đã chuẩn bị kỹ càng, chỉ cần thống nhất là cả hệ thống chạy "rầm rập". Tôi tin rằng mục tiêu chúng ta có thể tiến tới là không chỉ dùng thẻ ngân hàng để thanh toán cho metro mà có thể mở rộng ra các hình thức khác” ông Nguyễn Hoàng Long nhấn mạnh.

Ông Long cho biết thêm NAPAS từng thực hiện thử nghiệm thanh toán bằng thẻ ngân hàng cho hệ thống Vinbus tại Hà Nội và tại các cảng hàng không, chứng minh tính khả thi của mô hình.

Chia sẻ thẳng thắn về thực trạng hiện nay, ông Khuất Việt Hùng - Chủ tịch HĐQT Metro Hà Nội - nói 2 tuyến metro tại Hà Nội có hệ thống vé riêng biệt, người dân mua vé lượt vẫn phải dùng tiền mặt hoặc đến tận ga. Vì vậy, việc liên thông các tuyến và kết nối thanh toán thông minh là yêu cầu cấp thiết.

Bài học quốc tế từ Nhật Bản

Kinh nghiệm từ Nhật Bản cho thấy quá trình liên thông vé điện tử là cả một chặng đường dài cần sự kiên trì và phối hợp chặt chẽ. Ông Satoru Horiuchi – Tổng Giám đốc Tokyo Metro Việt Nam - cho biết tại Nhật, ban đầu các tuyến đường sắt cũng vận hành độc lập. Từ năm 2000, nước này bắt đầu đồng bộ hóa hệ thống thẻ trả trước và đến năm 2013, toàn bộ thẻ IC như Suica, Pasmo đã có thể sử dụng trên toàn quốc, không chỉ trong giao thông mà cả trong mua sắm, sinh hoạt hàng ngày.

Theo ông Horiuchi, để làm được điều đó, Nhật Bản đã thành lập các nhóm nghiên cứu như “cửa sổ Passnet”, “tổ nghiên cứu Pasmo” để thống nhất về tiêu chuẩn và cách triển khai. Ông Satoru Horiuchi đề xuất Việt Nam cũng cần có một tổ chức điều phối mạnh để dẫn dắt quá trình chuẩn hóa, thống nhất về kỹ thuật, chính sách và dữ liệu giữa các chủ thể liên quan.

Dưới góc độ vĩ mô, ông Fukuda Chihiro – Phó Trưởng đại diện JICA tại Việt Nam cho biết JICA đã và đang hỗ trợ xây dựng hệ thống đường sắt đô thị tại các nước: Thái Lan, Philippines, Indonesia, Bangladesh. Tại Việt Nam, với dự án ở TPHCM, hệ thống hệ thống thu phí tự động (AFC) đã được triển khai.

Đại diện JICA nhấn mạnh 3 yếu tố Nhà nước cần thực hiện để triển khai AFC.

Thứ nhất, cần triển khai hệ thống có khả năng tích hợp không chỉ đường sắt mà chung cho bãi đỗ xe hay các cửa hàng. Như vậy ngay từ đầu cơ quan quản lý cần có phương hướng xây dựng hệ thống có khả năng vận hành liên thông và xây dựng bộ quy chuẩn thống nhất.

Thứ hai là an ninh thông tin, hệ thống AFC xử lý dữ liệu cá nhân của hành khách nên điều bắt buộc là phải có biện pháp an ninh đủ mạnh để phòng chống hành vi lừa đảo và bảo vệ thông tin cá nhân, Nhà nước cần ban hành các văn bản pháp luật và quy định để thực hiện điều này.

Thứ ba là sự hỗ trợ về tài chính và chính sách. Để triển khai hệ thống AFC sẽ cần một khoản chi phí ban đầu. Vì vậy không nên giao phó hoàn toàn cho các doanh nghiệp quản lý, vận hành mà Nhà nước cần hỗ trợ về mặt tài chính và chính sách để đảm bảo hiệu quả, thúc đẩy phổ biến hệ thống AFC này.

trai-nghiem-di-thu-metro-so-1-17.jpg
Tuyến Metro số 1 ở TP.HCM đã áp dụng mô hình thanh toán không dùng tiền mặt. Ảnh: Diệu Bình.

Bên cạnh đó, ông Fukuda cũng đề cập tới giải pháp liên kết đa phương tiện: tại TP.HCM, hệ thống xe bus đang được phát triển để kết nối các nhà ga metro, tạo sự thuận tiện trong di chuyển, đây là mô hình mà Hà Nội nên học hỏi.

Nhấn mạnh việc phân định vai trò rõ ràng, ông Khuất Việt Hùng tiếp tục chỉ ra yêu cầu phân cấp giữa cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp.

Mỗi bên phải rõ vai trò: doanh nghiệp phải chủ động vận hành hệ thống của mình, Nhà nước lo điều phối, chính sách, dữ liệu. Quan trọng là bảo đảm sự ổn định ngay cả khi hệ thống liên thông chung gặp sự cố.

“Theo tôi việc quan trọng nhất để triển khai thành công là thực hiện. Như NAPAS đã sẵn sàng hệ thống thanh toán rồi, chỉ có điều bây giờ phải làm. Ví dụ như phải triển khai kết nối vào hệ thống của Metro để đảm bảo hệ thống chung của Sở Xây dựng có thể hoạt động thông suốt với hệ thống của chúng tôi. Chúng tôi cũng phải thiết kế hệ thống của mình kết nối được với hệ thống của Sở Xây dựng. Vấn đề này hai bên cùng thực hiện. Các nền tảng thanh toán sẵn sàng rồi, các công cụ đã đầy đủ, chúng ta chỉ làm thôi”, ông Khuất Việt Hùng nhấn mạnh.

Ngoài ra, theo ông Đỗ Việt Hải, hệ thống vé thông minh không chỉ thu tiền mà còn là “mỏ dữ liệu” lớn.

“Nguồn tài nguyên số đang ngày càng quan trọng. Dữ liệu từ giao thông công cộng có thể phục vụ quy hoạch đô thị, kinh tế, thậm chí an ninh trật tự,” ông Đỗ Việt Hải nói.

Ông Nguyễn Hoàng Long, Phó Tổng Giám đốc NAPAS nhấn mạnh việc số hóa, chuyển đổi số là chủ trương chung của Chính phủ. Trong thanh toán, NAPAS đã hoàn thành việc triển khai thanh toán số.

“Hiện nay, mọi người đều có thể mua một mớ rau ngoài chợ bằng quét mã QR, có thể trả cốc cà phê bằng việc dùng điện thoại để quét. Như vậy không có lý do gì trong thời gian tới chúng ta không thể áp dụng những hình thức thanh toán hiện đại và nhanh chóng như vậy trên hạ tầng giao thông công cộng hiện đại như hạ tầng metro. Thực tế, chỉ cần điện thoại có kết nối ngân hàng hoặc VNeID là người dân có thể đi metro. Thanh toán không tiền mặt đã trở thành thói quen, chúng ta cần tận dụng để đẩy nhanh triển khai hệ thống vé liên thông,” ông Long nhấn mạnh.