|
Từ sau đại chiến thế giới thứ II, súng phun lửa được sử dụng rộng rãi, bao gồm cả chiến tranh Việt Nam nhằm tiêu diệt vũ khí trang bị, binh lực và sinh lực của đối phương, tấn công các công sự trú ẩn, các công trình quân sự và dân sự, phá hủy vị trí ẩn nấp của đối phương. Do tầm sát thương tương đối thấp, súng phun lửa được thay thế bằng vũ khí nhiệt áp hiệu quả hơn.
Giai đoạn năm 1972-1974 . Các chuyên gia của Viện thiết kế thiết bị Tula (KBP) đã thiết kế chế tạo ra súng phóng lựu bắn đạn cháy sử dụng nhiều lần (RPO). Súng được đưa vào biên chế trong quân đội Xô viết theo chỉ lệnh của Bộ trưởng Bộ quốc phòng Liên xô № 006 ký ngày 05.01.1975
Hiện nay, các thế hệ súng phun lửa cũ được thay thế bằng các loại súng phóng lựu với đạn nhiệt áp, có khả năng đốt cháy, phá hủy cao hơn so với súng phun lửa thông thường, đồng thời với tầm bắn xa hơn, hiệu quả sát thương cũng lớn hơn gấp nhiều lần.
Súng phóng lựu nhiệt áp cho thấy hiệu quả tác chiến trong các cuộc chiến đấu với các lực lượng tác chiến theo mô hình chiến tranh du kích, sử dụng triệt để yếu tố địa hình địa vật mà các hỏa lực thông thường không dễ dàng tiếp cận hoặc khó khăn khi tấn công. Do hiệu quả tác chiến rất cao, các chiến sĩ Xô viết gọi súng phóng lựu nhiệt áp là "đại bác bỏ túi của bộ binh và lực lượng đặc biệt tinh nhuệ".
Súng phóng lựu nhiệt áp đã tham gia nhiều cuộc chiến tranh phức tạp như cuộc chiến tranh Apganistan, chiến trường Chesnia và các cuộc chiến chống lực lượng khủng bố trên các địa hình phức tạp.
Những loại súng phóng lựu đạn nhiệt áp có trong biên chế của quân đội Nga ngày nay là: RPO Ruws "Mèo rừng”
|
Uy lực của đạn cháy tương đương như lựu pháo chiến trường |
1- Súng phóng lựu đạn cháy RPO Ruws "Mèo rừng”: là súng phóng lựu đạn cháy (hỗn hợp chất cháy được nạp trong đạn phóng lựu) sử dụng nhiều lần. Súng và đạn được Văn phòng thiết kế Nhà máy chế tạo thiết bị thành phố Tula phát triển vào những năm 1972 – 1974. Kỹ sư trưởng thiết kế là Kamolov và J. Kirilov. Súng phóng lựu và đạn được phát triển từ phóng lựu RPG-16.
|
Súng phóng lựu đạn cháy RPO Ruws "Mèo rừng” |
Là hỏa khí đi cùng, súng được biên chế cho cá nhân sử dụng tương tự như súng RPG, trong ba lô giá đeo súng bao gồm một ống phóng lựu và và 2 ống phóng đựng đạn cháy) .
Do đặc điểm súng phóng lựu đạn cháy RPO Ruws sử dụng nhiều lần, do đó xạ thủ súng phóng lựu phải bảo quản tốt nòng súng, không để các vật ngoài như đất bẩn, tuyết, rác rưởi hoặc nước có trong nòng súng, nếu có phải loại bỏ sạch. Trên ống phóng của súng không được có các vết lồi lõm, va chạm hoặc móp méo. Đạn nhiệt áp có sức mạnh hủy diệt lớn hơn cả napalm, nên khi bắn nếu đạn không nổ, súng và đạn phải được hủy theo quy trình của các chuyên gia vũ khí hóa học.
Súng là ống phóng đạn được trang bị bộ phận ngắm cơ khí, bao gồm thước ngắm và đầu ngắm đơn giản như súng RPG -2 (súng B40 theo cách gọi Việt Nam). Trên nòng súng ngoài bộ phận thước ngắm và đầu ngắm còn có chân súng để ổn định bắn và giữ chắc súng khi bắn, bộ phận cò súng. Trước khi bắn nối nòng súng với ống đựng – phóng đạn.
Đạn phóng lựu ổn định đường bay bằng phương pháp quay xung quanh trục nhờ các cánh ổn định.
Ống phóng đạn dạng container được gọi là ống phóng đựng đạn và phóng đạn, ống phóng đạn chế tạo bằng nhựa tổng hợp, sử dụng một lần. Trong ống đựng – phóng đạn có đạn gây cháy gắn với động cơ đẩy phản lực, ống đựng – phóng đạn được kết nối với nòng súng được sử dụng nhiều lần.
|
Nòng súng và ống phóng đạn |
Nòng súng phóng lựu đạn cháy RPO Ruws "Mèo rừng” gồm có: 1 – Bộ phận thước ngắm; 2 – Chân súng; 3 – Bộ phận cò điện; 4 – Hộp đuôi súng và kim hỏa; 5 – Dây đeo súng.
|
Ống đựng và phóng đạn. |
|
Đạn cháy RPO Ruws (mèo rừng) |
Đạn cháy nổ là loại đạn phóng lựu gây cháy nổ được lắp với liều phóng. Liều phóng sẽ cháy hết khi đạn bay ra khỏi nòng súng.
Những tính năng kỹ thuật chung của súng phóng lựu đạn cháy RPO Ruws:
Chiều dài của súng khi lắp ống đựng phóng đạn – 1440mm
- Khối lượng của súng khi sẵn sàng chiến đấu - 12,6 kg
- Khối lượng tổng thể của bộ giá mang súng RPO (РПО) - 22 kg
- Khối lượng của nòng súng - 3,5 kg
- Khối lượng đạn - 9,4 kg
- Tầm bắn xa nhất - 400 - 500 m
- Tầm bắn trên thước ngắm - 190 m (250 / 270 m theo các tài liệu khác)
- Tầm bắn thẳng hiệu quả - 130 m
- Tốc độ bắn - 1 phát/phút
- Thời gian đưa súng vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu – 60s
- Giới hạn sử dụng súng – 100 lần bắn.
Súng sử dụng các loại đạn :
- Ruws-Z – đạn cháy, ống đạn đựng chất cháy MPS-1A . Chất gây cháy khi va chạm sẽ bốc cháy rất mạnh và sát thương bằng nhiệt độ cao. Theo thông số các nhân tố phá hoại của vụ cháy tương đương với vụ nổ của đạn pháo 122mm.
Thể tích chất cháy – 4 lít (3 kg)
- Ruws-D – đạn khói, khi bắn, sẽ tạo ra một màn khói dày đặc trong không gian hẹp hoặc màn khói rộng tùy theo hướng gió trên địa hình.
2- Súng phóng lựu nhiệt áp RPO-A Shmel.
|
Súng phóng lựu nhiệt áp RPO-A Shmel |
Súng phóng lựu nhiệt áp sử dụng một lần, được phát triển bởi phòng thiết kế của Tập đoàn chế tạo thiết bị Nga, thành phố Tula. Được thiết kế và chế tạo vào năm 1984 ( theo nguồn thông tin khác là năm 1976). Súng phóng lựu RPO-A đã được sử dụng tại chiến trường Apganixtan vào năm 1983 – 1984, được biên chế vào lực lượng hóa học của quân đội Xô viết năm 1988. Sau đó, súng trở thành vũ khí biên chế chính thức trong lực lượng binh chủng hợp thành. Súng sử dụng đạn phóng lựu phản lực, ổn định đường bay bằng phương pháp tạo vòng quay quanh trục của đạn bằng các cánh ổn định. Súng sử dụng 1 lần.
Súng phóng lựu nhiệt áp có đường kính nòng súng - 93 mm; Chiều dài - 920 mm.
Súng được trang bị cho cá nhân trong tiểu tổ bộ binh, mỗi chiến sĩ hỏa lực mang theo 2 ống phóng lựu nhiệt áp RPO-A Shmel.
|
Kính ngắm cơ khí quang học |
Để đảm bảo khả năng ngắm bắn chính xác, trên mỗi súng có bộ phận ngắm bao gồm kính ngắm quang học và thước ngắm, đầu ruồi. Có thể sử dụng kính ngăm quang học OPO/OPO-1 hoặc kính ngắm đêm PON.
Kính ngắm đêm PON là thiết bị quang học sử dụng nhiều lần, kính nặng 1.5 kg sử dụng nguồn điện - 1.5 V, cường độ dòng điện - 100 μА. Kính có độ phóng đại - 4х, góc trường nhìn - 8 độ, tầm phát hiện mục tiêu là người đến 300 m, trang bị phương tiên đến 500 m.
|
Kính ngắm quang học |
Ống phóng của súng phóng lựu nhiệt áp sử dụng một lần, được chế tạo bằng chất liệu sợi thủy tinh ép thành ống phóng. Súng có thể bắn được trong phòng kín với thể tích là 60 m3 (tài liệu hướng dẫn sử dụng là 45m3). Để huấn luyện, có thể sử dụng thiết bị huấn luyện 9F700-2. Súng được đóng gói trong giá đeo 2 ống phóng, có thể sử dụng được ngay.
|
Ống phóng đạn và đạn thermorbasic |
Tương tự như các súng phóng lựu phản lực, súng RPO có vùng nguy hiểm khi bắn: Phía sau góc mở là 110o, khoảng cách là 47m.
Hướng bắn không được có các vật che khuất, che chắn có thể cản trở đường bay của đạn đến mục tiêu. Mặt cắt trước của nòng súng không được thấp hơn 20 cm so với mặt bằng của vị trí hỏa điểm để tránh cho cánh ổn định đạn không va chạm với mặt đất. Khi bắn ở tư thế nằm bắn, góc chếch của thân xạ thủ so với trục nòng súng là 60o. Không được phép bắn khi có vật cản sau lưng gần hơn 3m. Khi bắn trong nhà, khoảng cách từ vị trí bắn đến tường phía sau không nhỏ hơn 6m. Đến các bức tường bên cạnh sườn không gần hơn 1m. Khi bắn súng phóng lựu cần chú ý xem xét súng nhằm đảm bảo an toàn.
|
Súng và đạn RPO-A Shmel |
Khối lượng súng - 11 kg / 12 kg
Khối lượng đạn - 6.5 kg (với động cơ đẩy)
Khối lượng bộ giá súng (2 ống phóng) - 22 kg
Tầm bắn xa nhất - 1000 m (có thể 1200 m theo các nguồn tư liệu NATO)
Tầm bắn có sử dụng bộ phận ngắm:
- kính quang học thước ngắm - 600 m
- Kính ngắm quang học OPO - 450 m
- Kính ngắm quang học OPO-1 - 850 m
Tầm bắn thẳng với mục tiêu cao 3 m - 200 m
Tầm bắn gần nhất - 25 m (20 m theo tài liệu hướng dẫn sử dụng )
Vận tốc bay Vo của đạn - 125 +- 5 m/s
Độ lệch đạn - 0.7-1 m (trên khoảng cách bắn 200 m)
Thời gian chuẩn bị cho xạ kích - 30 s
Nhiệt độ hoạt động của súng đạn – từ -50 đến +50oС
Thời gian lưu trữ sử dụng - 10 năm
Loại đạn:
- RPO-A : Hỗn hợp nổ nhiên liệu thuốc nổ khí (thermobasic) đạn tạo vụ nổ nhiệt áp bao chùm (sau đây gọi tắt là nhiệt áp) hỗn hợp nổ nhiệt áp cháy nổ không cần có kíp gây nổ, công suất nổ phá tương đương vụ nổ của đạn lựu pháo 122mm (tương đượng với lựu pháo 105mm theo thiết kế), phía đầu đạn có đầu nổ lõm nhỏ nhằm phá hủy các vật cản. Đặc điểm nhận biết: 2 vạch sơn đổ ở nắp trước của nòng súng.
Nhiệt độ cháy của vụ nổ nhiệt áp – đến 800oС.
Thể tích phá hoại, sát thương của đạn trong không gian bị che chắn ( nhà, hầm …) là 80m3 với áp suất nén lên đến 4-7kg/cm2.
Diện tính phá hoại, sát thương của đạn trên diện rộng ( không gian không bị che chắn - 50 m2 với áp lực nén là 0.4 đến 0.8kg/cm2 trong bán kính 5m)
Đầu đạn nặng - 2.1 kg.
- RPO-D : Đây là mẫu súng phóng lựu nhiệt áp (Shmel) với đầu đạn khói. Được sử dụng để giải tỏa các khu vực, chung cư, tòa nhà bị chếm đóng bởi lực lượng chống đối mà không gây sát thương, hoặc dùng để bắt tù binh. Màn khói mạnh đến mức người bình thường không thể chịu đựng được nếu không sử dụng mặt nạ phòng độc. Đặc điểm nhận biết có một vạch đỏ trên nắp của ống phóng lựu nhiệt áp.
Khối lượng đạn - 2.3 kg
Chiều dài màn khói - 55-90 m (phụ thuộc vào gió và hướng gió, thời gian tồn tại màn khói là 1.2 – 2 phút).
- RPO-Z : Súng phóng lựu đạn cháy Shmel. Đạn có thể gây cháy trên diện rộng trong khu vực tấn công, trong các chung cư hoặc building. Đặc điểm nhận biết, có một vạch vàng trên nắp của ống súng phóng lựu.
Khối lượng đầu đạn - 2.3 kg
Thể tích không gian cháy trong các khu nhà, chung cư hoặc buildinh - 90-100 m3 trong thời gian từ 5-7s.
Diện tích khu vực gây cháy trên diện rộng - 300 m3/ 20 đám cháy trên diện rộng
Cấu tạo chung của súng phóng lựu nhiệt áp RPO-A Shmel :
|
1 - Ống phóng và mang vác đạn
2 – Cần kéo
3 – Dây đeo súng
4 – Thước ngắm có kính quang học
5 – Đầu ngắm cơ khí
6 – Tay cầm phía trước
7 – Bộ phận cò súng và lẫy khóa an toàn
8 – Liều phóng và động cơ phóng đạn phản lực
9 - Ống đựng liều phóng và động cơ
10 – Bộ phận ổn định với các cánh ổn định gấp
11- Đầu đạn
|
Chi tiết của súng RPO |
Súng được xuất khẩu sang một số nước, có trong biên chế của các nước trong Liên bang Xô viết cũ và các nước thuộc khối Hiệp ước Vacsava.
Còn tiếp...
Trịnh Thái Bằng theo InfoNet