Đầu năm 2013, một tàu khu trục của Trung Quốc đã khóa radar xác định mục tiêu vào một tàu khu trục của Nhật Bản ở gần quần đảo Senkaku. Cả Nhật Bản lẫn Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo không người sinh sống ở gần Okinawa và Đài Loan này. Đây chỉ là một trong nhiều vụ tranh chấp lãnh thổ mà Trung Quốc có dính dáng tới ở Biển Đông và Hoa Đông.
Tuy nhiên rất may không có sự leo thang căng thẳng nào ở trường hợp lần này: Tàu khu trục của Nhật Bản đã không đáp trả. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu những điều này diễn biến khác đi vào lần tới? Thật không khó để tưởng tượng ra một viễn cảnh vượt ra khỏi tầm kiểm soát và dẫn tới một cuộc chiến tranh. Liệu Mỹ sẽ làm gì nếu một cuộc chiến tranh khu vực diễn ra trên diện rộng?
Trong trường hợp này và nhiều viễn cảnh khác xảy ra, Mỹ buộc phải bảo vệ các đồng minh của mình. Một biện pháp mà nước này có thể sẽ thực hiện là phong tỏa các tuyến giao thông hàng hải của Trung Quốc bằng lực lượng Mỹ với sự hỗ trợ công khai từ các nước khác, những nước kiểm soát các eo biển quốc tế quan trọng, trong đó có Indonesia và Malaysia. Cho dù có thể là tốn kém và nguy hiểm, việc phong tỏa có thể mang tính quyết định. Các chuyên gia T.X. Hammes và Sean Mirski cho rằng trong những trường hợp thích hợp, đặc biệt là một cuộc chiến tranh hạn chế trong thời gian dài, việc phong tỏa là một chiến lược có thể giành được chiến thắng trong chiến tranh.
Tuy nhiên, việc phong tỏa đồng thời cũng sẽ có những cạm bẫy. Sẽ rất mất thời gian để thực hiện việc này. Cũng cần phải cân bằng việc ngăn chặn lượng dầu mỏ nhập khẩu từ Trung Quốc với việc xuất khẩu hàng hóa. Và một quốc gia ban bố lệnh phong tỏa cũng sẽ cần phải cân nhắc xem làm thế nào để “cầm cương” để ngăn chặn Trung Quốc khỏi đạt được những mục tiêu của họ (trong ví dụ trên là đảm bảo kiểm soát vùng biển thuộc quần đảo Senkaku) trong khi duy trì hiệu lực lệnh phong tỏa.
Với những ưu và nhược điểm đó, các nhà hoạch định chính sách và các tư lệnh chiến trường phải hiểu làm cách nào để việc phong tỏa Trung Quốc thật sự có hiệu quả và các điều kiện cần thiết để có thể được thực hiện là gì.
Nên phong tỏa những lĩnh vực gì?
Khi cân nhắc lệnh phong tỏa, câu hỏi đầu tiên là: hàng hóa nào sẽ là mục tiêu của lệnh này? Một lựa chọn rõ ràng là tất cả mọi loại hàng hóa. NWP 1-14, Sổ tay của sĩ quan về Luật hoạt động Hải quân, nói rằng luật phong tỏa cho phép ngăn chặn mọi tàu thuyền và máy bay, kể cả hàng hóa đi qua khu vực được phong tỏa. Các lệnh phong tỏa khiến người dân chết đói là điều bất hợp pháp, nhưng trong trường hợp thích hợp thì có thể được áp dụng vì nguồn lương thực và năng lực y tế của Trung Quốc có thể phục vụ người dân kể cả khi bị phong tỏa.
Nhưng dù cho sự lựa chọn đó là hợp pháp thì nó cũng không nhất thiết là một sự lựa chọn khôn ngoan. Tất cả các lệnh phong tỏa, như chiến dịch tàu ngầm U-Boat của Đức nhằm chống lại Anh trong chiến tranh thế giới thứ hai, đều quá khó và tốn kém để thực hiện. SẼ hiệu quả hơn nếu nhằm vào một số mặt hàng cụ thể. Chẳng hạn như trong Thế chiến hai, Mỹ áp dụng cả chiến dịch trên không với châu Âu và chiến dịch dưới biển ở Thái Bình Dương để nhằm triệt phá hạ tầng dầu mỏ của Đức và Nhật Bản. Một chiến lược như vậy có thể sẽ phát huy tác dụng trong một cuộc xung đột kéo dài với Trung Quốc.
Thực tế, cũng giống như đối với các đế quốc Đức và Nhật Bản trước đây, dầu mỏ được coi là gót chân Asin của Trung Quốc. Sản xuất dầu mỏ nội địa của Trung Quốc chỉ đáo ứng được 40% nhu cầu tiêu thụ cho những mục đích hòa bình và lượng cầu về dầu tiếp tục gia tăng, kể cả trong những giai đoạn không tăng trưởng hoặc tăng trưởng âm về xuất khẩu ( như năm 2001 và 2009). Một lợi thế khác của việc phong tỏa nhằm vào dầu mỏ là làm giảm bớt sự phân biệt đối xử.
Tàu chở dầu là một loại tàu đặc thù, có thể làm giảm bớt gánh nặng của nước phong tỏa trong việc xác định và lựa chọn ưu tiên mục tiêu. Buôn lậu dầu với khối lượng lớn bằng những loại thuyền khác là điều không thể thực hiện được. Thêm nữa, Trung Quốc sẽ có một quãng thời gian khó khăn để có thể nhập khẩu đủ lượng dầu cho tất cả các khu vực vì những trở ngại địa hình, đường ống dẫn dầu chưa hoàn thiện cũng như cạnh tranh có được nguồn dầu mỏ Nga.
Tuy nhiên, Trung Quốc đã nhận ra sự lệ thuộc của nước này vào nguồn dầu bên ngoài và đang bắt đầu những bước đi đầu tiên để tự giảm thiểu sự tổn thương trước những sự gián đoạn nguồn cung dầu. Cụ thể, Trung Quốc đã bắt đầu tăng mạnh dự trữ dầu chiến lược. Lượng dầu dự trữ chiến lược của Trung Quốc năm 2011 có thể cung cấp đầy đủ cho sự tiêu thụ trong nước (chỉ với những hoạt động sản xuất trong nước) trong vòng 25 ngày. Những nâng cấp cho nguồn dự trữ này được dự tính sẽ có thể cung cấp trong khoảng thời gian dài gấp đôi vào năm 2020, kể cả với sự gia tăng nguồn cầu dầu của Trung Quốc.
Tác động của một cuộc chiến tranh lên nhu cầu về dầu mỏ của Trung Quốc cũng đáng để xem xét. Trung Quốc tiêu thụ dầu mỏ nhiều nhất. vào lĩnh vực vận tải, nên cứ cho rằng một cuộc chiến có thể làm giảm khối lượng xuất khẩu của Trung Quốc (nước này sẽ không tiếp tục giao thương với Mỹ và Nhật Bản nữa), nhu cầu về dầu mỏ để vận chuyển hàng hóa sẽ giảm xuống. Giao thông vận tải đường bộ làm giảm sự phụ thuộc của Trung Quốc vào dầu cho ngành hàng hải, cho dù nó chỉ đóng một lượng nhỏ trong tổng nhu cầu dâu mỏ của Trung Quốc. Một quốc gia tiến hành phong tỏa quốc gia khác cũng phải cảnh giác với việc bán lại nguồn dầu trung gian, loại dầu được phép đi qua khu vực phong tỏa. Do đó Mỹ cần kêu gọi một liên minh đủ mạnh để có thể bao vây Trung Quốc.
Tổng doanh thu 2.000 tỷ USD từ xuất khẩu của Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng một cách nặng nề bởi tuyên bố một lệnh phong tỏa như vậy (bên cạnh sự sụt giảm đột ngột về doanh thu từ việc các cảng của Mỹ đóng cửa với Trung Quốc). Sự sụt giảm đột ngột ngày có thể đem đến các chất xúc tác để chấm dứt thái độ thù địch, và nếu Trung Quốc dần chuyển sang nền kinh tế thời chiến thì tầng lớp trung lưu bất mãn với chế độ có thể bắt giới lãnh đạo Trung Quốc phải trả giá đắt, do đó sẽ giảm nguy cơ chiến tranh.
Nền kinh tế Trung Quốc vẫn chứng tỏ sự thích ứng với thời kỳ giảm lượng giao thương bằng việc thay thế xuất khẩu bằng kích thích và đầu tư trong nước. Nếu Trung Quốc quyết định rằng các mục tiêu chiến tranh xứng đáng với sự sụt giảm về xuất khẩu thì chủ nghĩa dân tộc được quản lí hiệu quả có thể là chiếc phao cứu sinh trong thời kỳ kinh tế khó khăn này. Khi những hứng thú với chiến tranh nhạt nhòa dần, sự kiểm soát kinh tế của chính phủ có thể là đòn bẩy để thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong dài hạn (đầu tư vốn cố định đóng góp vào nền kinh tế Trung Quốc hơn xuất khẩu tới 75% và sự kích thích từ chính phủ có thể làm gia tăng hoạt động này).
Nhưng bởi vì sự chuyển dịch sang phát triển kinh tế nội địa vẫn cần có dầu mỏ, trọng tâm của một lệnh phong tỏa vẫn nên tập trung vào dầu mỏ trong khi vẫn ngăn chặn các mục tiêu khác khi có thể. Ngăn chặn một tàu chở container theo định kỳ khiến người ta tin vào tác động của lệnh phong tỏa xuất khẩu và làm khách hàng bỏ đi, trong khi nỗ lực chính lại tập trung vào tình hình thương lượng nguồn dầu của Trung Quốc. Chung quy, các thủy thủ tàu ngầm của Thế chiến thứ II vẫn nhấn chìm các tàu chở quân nhưng tàu chở dầu là thứ họ đánh chìm trước tiên.
(còn tiếp)
* Tác giả Jason Glab từng phục vụ 11 năm với vai trò sĩ quan tàu ngầm hoạt động ở khu vực Tây Thái Bình Dương. Ông cũng từng phục vụ trong ngành phân tích hải quân thuộc Cơ quan tình báo quân sự và học tại Trường Hải chiến Mỹ.