|
Đại tướng Lê Đức Anh trong buổi tặng Hồi ký cho Thư viện Quân đội. (Ảnh: Tuấn Minh) |
Trong việc tăng cường phòng thủ bờ biển, hải đảo và thềm lục địa có hai vấn đề nổi lên rất quan trọng và cấp thiết cần phải được giải quyết. Đó là, tiếp tục hoàn thiện bố trí lực lượng trên các đảo thuộc khu vực quần đảo Trường Sa và việc xử lý các vấn đề thuộc cảng quân sự Cam Ranh.
Cuối tháng 2/1987, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Quân chủng Hải quân củng cố và tăng cường lực lượng phòng thủ quần đảo Trường Sa. Cuối tháng 3/1987, tôi xuống làm việc với Bộ Tư lệnh Hải quân và chỉ thị rõ: Phải thấy hết vị trí chiến lược của Biển Đông. Trước tiên, phải lo phòng thủ quần đảo Trường Sa, nơi có thể xảy ra xung đột. Ta phải hành động kiên quyết để bảo vệ các đảo nổi và đảo chìm. Các đồng chí suy nghĩ mọi cách để xây dựng hải quân hùng mạnh.
Ngày 10/6/1987, tôi vào Cam Ranh, tiếp tục làm việc với Bộ Tư lệnh Hải quân và Vùng 4, tôi nói rõ thêm: Ta phải nỗ lực cao nhất để bảo vệ quần đảo Trường Sa, tăng cường khả năng phòng thủ tại chỗ, giữ vững các đảo, coi trọng việc chi viện từ bờ ra. Vừa qua quốc phòng và cả nước chưa làm hết sức. Nay ta phải làm, làm cho ngày nay và cho thế hệ mai sau.
Cuối năm 1987 và tháng 1/1988, Bộ Tổng Tham mưu và Tổng cụ Chính trị đã tổ chức hội nghị giao nhiệm vụ cho các quân chủng: Hải quân, Phòng không và Không quân, kế hoạch hiệp đồng tác chiến giữa ba quân chủng để bảo vệ quần đảo Trường Sa và vùng cảng Cam Ranh.
Chiều ngày 13/2/1988, làm việc với Tư lệnh Hải quân, tôi đã phê phán nghiêm khắc việc để mất đảo Đá Chữ Thập và giao cho Tư lệnh Quân chủng kiêm nhiệm Tư lệnh Vùng 4 Hải quân. Ngày 17/2, đúng mùng 1 Tết Mậu Thìn, Bộ Tư lệnh Hải quân vào Sở Chỉ huy Vùng 4 ở Cam Ranh để trực tiếp chỉ huy các đơn vị. Hai ngày sau, tôi gửi báo cáo lên Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng và Bộ Ngoại giao đề nghị giải quyết một số vấn đề cấp bách như tàu vận chuyển hàng ra Trường Sa, cấp kinh phí, vật tư cho hải quân.
Ngày 22/2/1988, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng đã ký quyết định giải quyết những vấn đề cấp bách mà nhiệm vụ bảo vệ biển đảo đặt ra. Trước mắt là nhiệm vụ đóng quân trên các điểm đảo thuộc chủ quyền của ta. Ngay sau đó, các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng đã làm việc với các cơ quan nhà nước để tiếp nhận vật tư, trang bị, tài chính cho hải quân.
Ngày 16/8/1988, Bộ Chính trị đã họp và có kết luận về nhiệm vụ bảo vệ quần đảo Trường Sa.
Từ ngày 4-9/5/1988, tôi trực tiếp ra thị sát tình hình bội đội chốt giữ ở quần đảo Trường Sa. Trước đó, ngày 12/4, ta công bố công khai các đảo mà Việt Nam đã quản lý từ trước đến nay.
Ngày 7/5, Bộ Tư lệnh Hải quân tổ chức kỷ niệm ngày truyền thống của Quân chủng tại đảo Trường Sa. Tới dự có đại diện các cơ quan của Bộ Quốc phòng, các quân chủng và Tỉnh ủy tỉnh Phú Khánh. Lễ mít tinh tổ chức ngay bên cột mốc có dòng chữ khẳng định chủ quyền của Việt Nam.
Trong bài phát biểu tại buổi lễ, tôi đã nhắc lại: Trong những năm 1950 và 1960, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc là quan hệ hữu nghĩ, tình sâu nghĩa nặng. Đặc biệt là sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trong những năm từ 1965 đến 1970 là rất to lớn và có hiệu quả.
Nhân dân Việt Nam vô cùng biết ơn sự giúp đỡ to lớn đó của nhân dân Trung Quốc đã dành cho mình. Mặt khác, thắng lợi của chúng ta cũng đã góp phần đáng kể phá vỡ sự bao vây của đế quốc Mỹ đối với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa…
Sau khi nêu lên sự kiện ngày 14/3/1988 vừa qua, tôi nói rằng: "Tại sao một số người lãnh đạo Trung Quốc nhân danh gì lại sử dụng vũ lực xâm chiếm một phần lãnh thổ của Việt Nam trên biên giới Việt – Trung, chiếm quần đảo Hoàng Sa, nay lại lấn chiếm quần đảo Trường Sa của Việt nam chúng ta?... Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là sự thật trên thực tế, phù hợp với pháp lý quốc tế, với đạo lý quốc tế… Chúng ta tin tưởng rằng, trong tương lai, nhân dân và cán bộ Trung Quốc sẽ hiểu rõ sự thật…
Chúng ta nhớ mãi không bao giờ quên tình sâu nghĩa nặng giữa nhân dân hai nước Việt – Trung, kiên trì phấn đấu để khôi phục tình hữu nghị giữa hai nước, đồng thời chúng ta quyết bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc chúng ta… Hôm nay, giữa trời cao, biển rộng bao la, trước anh linh tổ tiên và các cán bộ, chiến sỹ đã hy sinh vì Tổ quốc, xin hứa với đồng bảo cả nước, xin nhắc nhủ với các thế hệ mai sau: “Quyết tâm bảo vệ bằng được Tổ quốc thân yêu của chúng ta, bảo vệ bằng được quần đảo Trường Sa – một phần lãnh thổ và lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc chúng ta!”.
Các chiến sỹ hải quân cùng hô vang với tôi: “Xin thề!”. Tiếng hô: “Xin thề! Xin thề! Xin thề!” vang vọng cả biển trời.
Sau đó, tôi đã chỉ đạo Quân chủng Hải quân khẩn trương xây dựng các nhà giàn và bố trí lực lượng trên tất cả các đảo nổi, đảo chìm ở quần đảo Trường Sa và thềm lục địa. Anh em rất tích cực vận chuyển và xây dựng các công trình phòng thủ đảo. Các quân chủng, binh chủng: hải quân, không quân, phòng không, đặc công, thông tin đã tiến hành diễn tập thực binh chi viện đảo và tiếp tục hoàn chỉnh các phương án phòng thủ.
Không để Liên Xô đưa vũ khí hạt nhân vào Cam Ranh
Về vùng vịnh Cam Ranh và quân cảng Cam Ranh, tôi đặc biệt quan tâm đến vị trí này ngay từ khi tôi làm Tổng tham mưu trưởng. Đây là một trong ba vịnh tốt nhất thế giới cùng với San Francisco của Mỹ và Rio de Janeiro của Braxin. Cam Ranh có vị trí chiến lược, một khu vực phòng thủ then chốt của miền Trung và của cả nước, là căn cứ bảo vệ cả vùng biển rộng lớn và quần đảo Trường Sa. Ngoài ra, ở Cam Ranh còn có một điều vô cùng quý giá mà không phải cảng biển nào cũng có được là ngay sát mặt nước biển mặn chát lại có một mỏ nước ngọt với trữ lượng lớn.
Biên giới phía Bắc nóng bỏng như vậy, kể cả những trọng điểm như Chi Lăng, Vị Xuyên, Trà Lĩnh, tôi cũng chỉ cố gắng đến được hai lần; vậy mà với Cam Ranh, tôi vào tới bốn lần. Vậy bây giờ xu hướng giải quyết với Liên Xô và Cam Ranh như thế nào, vệ lực lượng cố vấn như thế nào, tôi nghĩ giải quyết phải có tình có lý, có pháp lý.
Trước đây, hai nhà nước Liên Xô và Việt nam đã ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện, những gì đã ký kết thì phải tôn trọng. Những gì bổ sung ngoài nội dung ký kết thì phải trao đổi, hai bên đồng thuận thì mới được thiện hiện. Chẳng hạn họ yêu cầu cho gia đình của họ vào ở bãi Cam Ranh cho thuận tiện đối với sỹ quan của họ, đây là điểm “bổ sung”, ta đồng ý. Nhưng nếu Liên Xô đưa tàu ngầm và các chiến hạm mang đầu đạn hạt nhân vào quân cảng Cam Ranh thì ta từ chối, vì sẽ làm phức tạp thêm hơn nữa trong hiệp định ký kết giữa hai nước không ghi.
Khi vào Cam Ranh, Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh đưa tôi đi thị sát toàn bộ khu vực. Thấy họ khai thác đá và cát trong vịnh để xây dựng kho và hầm ngầm, tôi bảo: “không được! Cứ cho họ khai thác thế này thì vịnh Cam Ranh sẽ bị sa mạc hóa”. Ở đây mỗi cục đá là một cùng vàng, cát cũng là vàng, một nhành cây cũng không được chặt mà chỉ có trồng thêm. Sẽ giải quyết đá và cát cho họ, nhưng không phải lấy ở vịnh mà lấy trong đất liền mang ra.
Trở về Hà Nội, tôi báo cáo các anh trong Bộ Chính trị. Với tư cách là Bộ trưởng Quốc phòng, tôi đề nghị kiên quyết: Một là, không đưa vũ khí hạt nhân vào Cam Ranh. Hai là, không khai thác đá và cát trong vịnh Cam Ranh. Các anh đồng ý. Lúc đó, tôi đã nghiên cứu kỹ văn bản hiệp định để có thể “gỡ” vấn đề. Trong hiệp định không có chỗ nào nói đến “hạt nhân và nguyên tử”, nên với danh nghĩa Bộ trưởng Quốc phòng, tôi nói với Trưởng đoàn cố vấn Liên Xô: “… Trong văn bản hiệp ước không nói nên các đồng chí không được lấy đá ở trong vịnh để xây dựng công trình, mà phải lấy ở ngoài. Hơn nữa, văn bản hiệp định cũng không hề nói đến vũ khi hạt nhân, nên mọi vũ khí hạt nhân và các phương tiện mang đầu đạn hạt nhân không được có ở đây”.
Sau khi Đại sứ Liên Xô điện về nước, họ xin gặp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng của ta. Anh Phạm Hùng gặp Đại sứ Liên Xô (theo yêu cầu của Đại sứ), đồng thời gọi tôi lên. Tôi bảo trong hiệp ước không có chuyện hạt nhân, tên lửa và không khai thác đá và cát trong vịnh Cam Ranh. Chúng tôi sẽ có đá và cát cho đồng chí. Đại sứ Liên xô điện về nước. Sự việc êm! Tôi chỉ đạo bộ đội ở vịnh Cam Ranh làm một con đường chừng 30km vào khai thác đá núi trong đất liền chở ra vịnh.
Đến khi Liên Xô tan rã, Chính phủ Nga thay thế tiếp tục thực hiện hiệp định, duy trì quân đội Nga đứng chân ở Cam Ranh. Mặc dù hiệp định còn hiệu lực tới năm 2004, nhưng tàu ngầm và chiến hạm của Liên Xô không còn ở Cam Ranh.
(Trích từ cuốn hồi ký "Cuộc đời và Sự nghiệp cách mạng" của Đại tướng Lê Đức Anh)